Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Thách thức về vấn dề bản quyền trong thời đại kỹ thuật số (Phần 2)

Giải pháp để thị trường tác động:

Một trong những lý do tại sao hệ thống đặc quyền như quyền tác giả từ trước tới nay lại thành công vang dội trong việc khuyến khích sức sáng tạo đó là nó cho phép những người sở hữu bản quyền tự tìm kiếm nguồn tài chính cho hoạt động của họ trên thị trường. Cụ thể là ở nơi nào mà công nghệ phát triển nhanh chóng thì ở đó tính linh hoạt của thị trường thường là phương thức tốt nhất để có thể đảm bảo rằng công trình sáng tạo vẫn liên tục được tạo ra và quảng bá đến công chúng.


Tuy nhiên bất kì thị trường nào cũng có những mặt trái và thách thức đặt ra đối với các chính phủ là làm sao khắc phục được những mặt hạn chế đó. Ví dụ, một đặc quyền sẽ trở nên vô ích đối với người sở hữu nó nếu thị trường ngăn trở việc thực thi quyền lợi ấy. Việc khai thác quyền được trình diễn ca nhạc trước công chúng chính là một ví dụ điển hình ở nước Mỹ. Giá trị của việc trình diễn đơn lẻ trước công chúng thì rất thấp nhưng lượng người sử dụng tác phẩm âm nhạc đó bao gồm các đài truyền hình, các quán bar, các nhà hàng, siêu thị, v.v. thì vô cùng đông đảo. Tóm lại giá trị của việc khai thác một tác phẩm là vô cùng to lớn và chi phí quản lý quyền tác giả trước một lượng người sử dụng đông đáo đó cũng vô cùng tốn kém.


Ở Mỹ, tính không hiệu quả đó của thị trường nói chung đã được khắc phục bằng giải pháp quen thuộc là để cho chính thị trường tác động: quản lý chung quyền trình chiếu. Trong hệ thống này, các hiệp hội thu phí cấp phép từ mỗi người sử dụng và trả cho tác giả cũng như nhà xuất bản. Ví dụ như ở Mỹ, Hiệp hội Các nhà soạn nhạc, nhà văn, nhà xuất bản (ASCAP) và Tập đoàn Truyền phát Nhạc (BMI) sẽ cấp hàng loạt giấy phép trình chiếu phổ thông cho các địa điểm và dùng khoản tiền cấp phép thu được trả cho các thành viên.


Cách tiếp cận tương tự cũng đang được sử dụng để quản lý quyền tái bản, sao chép điện tử và đã đạt được một số thành công nhất định. Ví dụ trong lĩnh vực này, Trung tâm Cấp phép Sử dụng Bản quyền đã đi đầu và hoạt động như một trung tâm cấp giấy phép cho đông đảo người sử dụng. Việc cấp phép bắt buộc, trong đó nhà nước in ấn và quản lý các giấy phép cũng là một giải pháp để khắc phục hạn chế của thị trường. Ví dụ, điều 111 và 119 trong Luật Bản quyền Mỹ đã quy định việc tái chuyển giao các tín hiệu truyển hình bắt buộc phải có giấy phép do chi phí giao dịch cao cùng với việc phải xin giấy phép cần thiết.


Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong lĩnh vực này cho thấy những hình thức quản lý tập thể vấn đề bản quyền hữu hiệu nhất đó là những hình thức giữ được càng nhiều đặc tính của các đặc quyền thị trường càng tốt. Điều này đòi hỏi hệ thống quản lý tập thể phải luôn chủ động, thừa nhận và linh hoạt trước các tác động của thị trường (bao gồm các các tác động được tạo ra bởi những thay đổi của công nghệ). Tất cả ba nhân tố trên đều hướng tới những cá thể hoạt động trong môi trường có tính cạnh tranh cao để tập trung quản lý quyền. Ngoài ra nhân tố thứ ba còn cho rằng quá trình quản lý các quyền lợi không nên tập trung vì điều kiện thị trường ở mỗi nước là khác nhau.


Hơn nữa việc quy định giấy phép bắt buộc phải được quản lý bởi nhà nước cũng gây tốn kém cho xã hội. Trước hết, quy định giấy phép bắt buộc vi phạm nghiêm trọng đến quy phạm về đặc quyền. Thứ hai, giấy phép bắt buộc có thể bóp méo thị trường bởi vì nó kiểm soát giá cả một cách trực tiếp thông qua cơ chế ấn định mức tiền bản quyền tác giả và một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát nguồn cung. Thứ ba, một khi giấy phép bắt buộc được hình thành, nó sẽ kéo theo cả mạng lưới những kẻ ăn theo rất khó xóa bỏ ngay cả khi không còn những điều kiện nuôi dưỡng mạng lưới đó.


Vì những lý do trên, việc cấp giấy phép bắt buộc chỉ được cho phép sử dụng một cách hạn chế bởi các hiệp định bản quyền quốc tế và nên áp dụng một cách thận trọng ở mức độ quốc gia. Thất bại của thị trường, như thị trường tái chuyển giao vệ tinh và cáp trong đó chi phí giao dịch quá đắt đỏ chính là một minh chứng cho việc ứng dụng cấp giấy phép bắt buộc đó.


NHỮNG THÁCH THỨC ĐẦU TIÊN


Công nghệ số hóa phát triển đã đặt ra hàng loạt thách thức cho vấn đề bản quyền quốc tế.


Duy trì cơ cấu các đặc quyền


Bởi vì những tiến bộ trong công nghệ số hóa đã giúp cho việc tái bản và phân phối các tác phẩm trở nên nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới, những năm gần đây cộng đồng quốc tế đã phải chú ý rất nhiều đến việc điều chính các đặc quyền để giải quyết những vấn đề phát sinh từ công nghệ mới. Một kết luận mang tầm quốc tế được đưa ra đó là: vì luật bản quyền hiện tại đã tương đối đầy đủ để có thể điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan tới công nghệ mới, cho nên chỉ cần sửa đổi bổ sung chứ không cần thay đổi hoàn toàn. Điều này được phản ánh trong các quy định vừa phải nhưng quan trọng của Hiệp định về Bản quyền WIPO (WCT) được kí kết một thời gian ngắn trước khi công nghệ số hóa trở nên thịnh hành.


WCT đòi hỏi các nước thành viên công nhận những đặc quyền cụ thể dành cho các hoạt động diễn ra trong mạng lưới viễn thông số hóa mới như mạng Internet. Hiệp ước này cũng trao cho các tác giả quyền được giao dịch với công chúng, bao gồm quyền rao bán sản phẩm của mình như cung cấp phần mềm tải các tác phẩm xuống từ các website. Trong khi nhiều bộ luật về bản quyền lồng ghép đặc quyền đó trong những quyền mang tính chất truyền thống hơn như quyền tái bản hay quyền trình chiếu thì WCT lại quy định rõ ràng thành một điều khoản rằng quyền rao bán, dưới bất cứ hình thức nào đều thuộc về tác giả.


Những biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền


Trong khi hầu như không sửa đổi gì đến nội dụng các đặc quyền, WCT đã bổ sung một số điều khoản khá mới mẻ đối với các hiệp định bản quyền quốc tế, đó là về các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền. Những biện pháp đó nhằm thúc đẩy sự phát triển của cách mạng kỹ thuật số bằng cách đảm bảo rằng giấy chứng nhận bản quyền có thể được cấp và sử dụng trực tuyến.


WCT quy định các quốc gia thành viên phải triển khai các giải pháp pháp lý hữu hiệu nhằm ngăn chặn những người sở hữu bản quyền sử dụng thủ đoạn kỹ thuật để bảo vệ quyền lợi của họ, đồng thời cũng ngăn chặn các cá nhân tẩy xóa hay sửa chữa thông tin quản lý quyền lợi được người sở hữu bản quyền cung cấp trong tác phẩm. Mục đầu tiên trong Hiệp định Bản quyền Kỷ nguyên Kỹ thuật Số (DMCA) đã quy định một hình thức trách nhiệm pháp lý mới đối với việc sử dụng các tiểu xảo kỹ thuật nhằm ngăn cản việc tiếp cận các công trình sáng tác đã được bảo hộ hay nhằm kiểm soát việc tái bản, phân phối, trình diễn, trình chiếu các tác phẩm đã được bảo hộ.


Vì vậy, WCT đã thừa nhận là các cá nhân sở hữu bản quyền nếu chỉ đơn phương sử dụng các biện pháp kỹ thuật thì khó có thể bảo vệ được tác phẩm của họ, bởi vì mọi thiết bị kỹ thuật đều có thể bị vô hiệu hóa bởi những kẻ tìm mọi cách ăn cắp tác phẩm đó. Nói cách khác, trong khi luật sở hữu trí tuệ hiện hành đang tiếp tục được điều chỉnh thì việc thực thi những quyền hạn đó trong bối cảnh có nhiều ứng dụng công nghệ mới như mạng Internet đòi hỏi phải bổ sung những điều luật mới ngăn cấm việc xâm hại đến các thiết bị kỹ thuật của các ứng dụng ấy.


Các thị trường và việc quản lý quyền lợi


Như đã đề cập ở trên, quản lý chung các đặc quyền chính là một giải pháp đối với tính không hiệu quả của quyền cấp phép sử dụng một số lượng lớn tác phẩm cho đông đảo người sử dụng khi mà giá trị sử dụng đơn lẻ tương đối thấp. Từ trước tới nay, việc cấp phép sử dụng đơn lẻ các tác phẩm thường làm cho chi phí giao dịch vượt quá giá trị của giấy phép.


Thoạt nhìn, quản lý chung nghe có vẻ là một cách tiếp cận hợp lý đối với việc quản lý quyền lợi, ít nhất là đối với một số tác phẩm trên mạng số hóa. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng như thế nào thì chưa được đề cập rõ ràng. Cơ sở hạ tầng thông tin cho phép phân phối các tác phẩm một cách nhanh chóng với chi phí thấp cũng có thể tăng cường khả năng của những người được hưởng đặc quyền để họ có thể tự mình quản lý quyền lợi đó. Các doanh nghiệp tư nhân đang rất nỗ lực để đưa ra các thiết bị giúp đơn giản hóa quá trình giao dịch riêng lẻ giữa người sở hữu bản quyền với người sử dụng. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ tự động hóa có thể giúp cắt giảm chi phí giao dịch thấp đến mức cho phép các cá nhân có thể tự quản lý quyền lợi của mình. Ngoài ra, các công nghệ như vậy còn có thể ứng dụng trong quản lý tổng hợp như là sự bổ sung cho việc cấp giấy phép phổ thông truyền thống.


Để những kỹ thuật này phát huy được tối đa tác dụng trên thị trường, vai trò của nhà nước ở đây phải là rất nhỏ. Chính các lực lượng thị trường chứ không phải nhà nước là yếu tố quyết định sự thắng thế của cơ chế quản lý quyền lợi chung, cơ chế quản lý quyền lợi đơn lẻ hay là kết hợp của cả hai cơ chế ấy.


NHỮNG THÁCH THỨC TRONG TƯƠNG LAI


Quy định trách nhiệm liên đới thích hợp trong kỷ nguyên kỹ thuật số


Một khía cạnh thú vị khác từ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hóa trong thập kỷ qua là tính chất cá nhân của công nghệ mới. Một người, hầu như không mất vốn liếng gì cũng có thể sao chép, phân phối hàng triệu bản copy các tác phẩm thông qua mạng Internet, đặc biệt là những tác phẩm dễ dàng chuyển về dạng số như ca nhạc, phim, ảnh. Ở Mỹ, chúng ta đã từng chứng kiến rất nhiều công ty triển khai mạng lưới bán hàng cá nhân-đến-cá nhân để tận dụng được ích lợi trên, mà cụ thể là tiếp nhận hàng triệu khách hàng vào mạng lưới vi phạm bản quyền quy mô lớn chưa từng thấy. Trước thực tế hoạt động của nhiều cá nhân có thể dẫn đến tình trạng vi phạm luật pháp hàng loạt, các câu hỏi nghiêm túc về việc thực thi pháp luật đã được đặt ra. Thật khó cho những ai sở hữu bản quyền để có thể xác định và tiến hành những biện pháp pháp lý để chống lại hiện tượng ăn cắp bản quyền tràn lan. Và ngay cả khi họ có thể thực thi các biện pháp ấy thì những người vi phạm nhiều khi cũng không có khả năng bồi thường cho những thiệt hại mà họ gây ra.


Nhằm cố gắng giải quyết có hiệu quả tình trạng ăn cắp bản quyền ngày nay, những người sở hữu bản quyền Mỹ đã phải sử dụng các học thuyết về trách nhiệm liên đới để quy trách nhiệm cho những kẻ tạo điều kiện cho những mạng lưới này vi phạm bản quyền. Các công ty này như công ty Napster trước đây, Aimster, Grokster, Morpheus, và Kazaa đã cung cấp phần mềm và các dịch vụ cho người sử dụng, đồng thời thu tiền quảng cáo dựa trên số lượng khán giả truy cập. Các quy định về Trách nhiệm Liên đới từ lâu đã là một phần của luật chung về bản quyền của Mỹ. Theo đó trách nhiệm sẽ thuộc về những ai thu được lợi từ các hoạt động phạm pháp và những ai kiểm soát hay ngăn cản nó. Những điều luật này có thể sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong tương lai, khi mà ngày càng có nhiều tiến bộ kỹ thuật cho phép các công ty lợi dụng các hoạt động phạm pháp của khách hàng.


Một loạt các vụ kiện chống lại các công ty như trên khiến cho các tòa án phải đau đầu để đưa ra được phán quyết thích hợp về trách nhiệm liên đới trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Ở Mỹ, quy định về trách nhiệm liên đới trong trường hợp ăn cắp bản quyền từ trước tới nay vẫn được xem là biện pháp có thể hạn chế tình trạng các công ty sử dụng tác phẩm được bảo hộ để thu hút khách hàng mà không được phép. Tuy nhiên, tòa án cũng đã phải can thiệp để cân đối trách nhiệm này với quyền được tự do tham gia vào các lĩnh vực không liên quan của thương mại.


Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết những vấn đề này hơn 20 năm về trước khi vụ kiện giữa Tập đoàn Sony Mỹ và Tập đoàn Universal Studios xảy ra. Kể từ đó, vụ kiện này đã trở thành bài học cho các tòa án trong việc ứng dụng quy định về đồng lõa vi phạm. Sony đã bán đầu máy Video Betamax, và người mua đã sử dụng để ghi lại các chương trình truyền hình phát trên tivi để có thể xem lại sau. Khi đó tòa án đã không tìm thấy trách nhiệm tiếp tay cho kẻ vi phạm và kết luận rằng Sony không phải chịu trách nhiệm, miễn là các cuốn băng sao chép đó “không có ý nghĩa thương mại” và “không bị sử dụng một cách bất hợp pháp”. Vì Tòa án thấy rằng việc sử dụng phổ biến sản phẩm Betamax đó không bất hợp pháp nên Tòa án đã không cần phải giải thích gì thêm về cụm từ “sử dụng bất hợp pháp” nữa. Tuy nhiên, Tòa án cũng thừa nhận rằng những người sở hữu bản quyền có quyền được bảo hộ thực sự chứ không chỉ là danh nghĩa.


Gần đây nhất là trong vụ kiện giữa MGM Studios và Grokster, Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết được câu hỏi là liệu các nhà cung cấp phần mềm bán hàng cá nhân-tới-cá nhân có phải chịu trách nhiệm liên đới hay không. Tòa án đã nhất trí rằng các nhà cung cấp như thế có thể sẽ chịu trách nhiệm liên đới nếu họ “cung cấp thiết bị với mục đích để khách hàng ăn cắp bản quyền, bộc lộ trong những biểu hiện rõ ràng hay việc dung túng cho hành động ăn cắp đó”. Nói cách khác, nếu nhà cung cấp khuyến khích khách hàng phạm pháp thì nhà cung cấp ấy cũng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những hậu quả do hành động phạm pháp đó gây ra. Tòa án Tối cao đã chỉ thị cho tòa án các bang phải luôn xem xét kỹ càng mọi tình huống mới có thể quyết định liệu có xảy ra tình trạng khuyến khích phạm pháp hay không, và phán quyết trong vụ kiện Sony không có nghĩa là bên bị đơn sẽ được miễn trách khi bị phát hiện có hành vi xúi giục khách hàng phạm pháp. Quy định này cho phép những người sở hữu bản quyền có thể khai thác hiệu quả bản quyền của họ mà không phải sợ các nhà cung cấp phần mềm và dịch vụ khuyến khích và thu lợi từ các hoạt động phạm pháp nữa. Nhiều bình luận viên đã gọi vụ kiện này là vụ kiện có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử luật bản quyền của Mỹ.


Mặc dù là vấn đề quốc tế nhưng có rất ít điểm tương đồng giữa luật của các quốc gia về trách nhiệm liên đới, liệu có được quy trách nhiệm cho một công ty triển khai công nghệ bán hàng cá nhân-tới-cá nhân để khuyến khích phạm pháp hoặc, như trong mục II của DMCA của Mỹ đã đề cập, một nhà cung cấp dịch vụ Internet cung cấp các thiết bị mà khách hàng sử dụng để phạm pháp hay không. Có lẽ đây là lĩnh vực đòi hỏi phải cân nhắc đến các chuẩn mực quốc tế về trách nhiệm liên đới, đặc biệt là khi phải đối mặt với bản chất toàn cầu của mạng Internet, nơi mà một công ty ở một nước có thể cung cấp các thiết bị có thể sử dụng dễ dàng để phạm pháp cho khách hàng ở nhiều nước trên toàn thế giới. Để có thể duy trì việc bảo hộ hiệu quả bản quyền trong kỷ nguyên số hóa đòi hỏi những chuẩn mực quốc tế đó.


Giảm tính không hiệu quả cho những người sử dụng tiếp theo


Như chúng ta đã thấy trong thập kỷ qua, mạng Internet đã cung cấp cho mọi người một kho thông tin khổng lồ dưới mọi hình thức, từ dạng văn bản đến dạng tranh ảnh, nhạc và phim. Ngoài ra, công nghệ số hóa còn đem lại cho mỗi cá nhân khả năng trở thành tác giả tự sáng tác và quảng bá tác phẩm của mình. Thường thì tác giả đó luôn muốn sáng tạo theo cách riêng của mình nhưng lại không chắc chắn về vấn đề bản quyền hoặc không biết xin cấp phép ở đâu. Như đã mô tả ở trên, việc cấp phép hàng loạt có thể hỗ trợ cho những tác giả như vậy bằng cách cung cấp cho họ những cơ chế hiệu quả trong việc xin cấp phép sử dụng các tác phẩm.


Tuy nhiên, sẽ có một số hay thậm chí là nhiều trường hợp các tác giả không tìm được người khai thác tác phẩm hay cơ quan quản lý chung, và tác giả đó không thể trả lời được câu hỏi là liệu luật bản quyền cho phép hay ngăn cấm khai thác các tác phẩm đó. Một thách thức đặt ra trong tương lai là luật bản quyền nên giải quyết thế nào với những “tác phẩm mồ côi” đó. Nếu quả thực có trường hợp người sở hữu bản quyền không còn quan tâm tới việc sử dụng sản phẩm ấy nữa thì cũng không nên ngăn cấm việc sử dụng sản phẩm đó, đơn giản vì không có gì chắc chắn về tình trạng của tác phẩm đó. Kết quả là sẽ làm giảm lượng người tiếp cận việc khai thác mới và hiệu quả của tác phẩm đó. Đây là mục tiêu cuối cùng của bất kì hệ thống bản quyền hiệu quả nào.


Tại Mỹ, cơ quan về bản quyền đã bắt đầu tìm hiểu vấn đề của các “tác phẩm mồ côi” để xem xét bản chất và quy mô của vấn đề cũng như tìm ra giải pháp pháp lý cho vấn đề đó. Còn các quốc gia khác như Canada đã phát triển những cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan tới các “tác phẩm mồ côi”. Một phần của thách thức đặt ra là phải đảm bảo rằng các giải pháp sẽ luôn trung thành và không làm tổn hại đến lợi ích của tác giả cũng như của người nắm giữ bản quyền và rằng chúng sẽ luôn tuân thủ luật bản quyền quốc tế - bộ luật ngăn cấm việc áp đặt các điều kiện cho việc thực thi và khai thác bản quyền.

___________________________________________
Marybeth Peters là người tiếp nhận đăng ký bản quyền tại Cục Bản quyền Hoa Kỳ, Thư viện
Quốc hội Mỹ

(Theo maxreading)

  • Doanh nghiệp khổ vì vi phạm sở hữu trí tuệ
  • Bảo vệ SHTT: Thờ ơ - hải quan “bó tay”
  • Sở hữu trí tuệ: Gậy nào đập lưng ông nào?
  • Bảo vệ thương hiệu nước mắm Phú Quốc
  • Hài hòa hóa việc bảo hộ kiểu dáng sản phẩm (phần II )
  • Giới thiệu khái quát các điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ
  • Sở hữu trí tuệ là gì?
  • Chi phí của việc phát triển một loại thuốc mới
  • Một hiệp hội thương mại đang hoạt động
  • Một công cụ mới chống sao chép đĩa quang
  • Thông điệp của Thành Long : Hàng giả _ lợi bất cập hại
  • Các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo về sở hữu trí tuệ
  • GioócDani hưởng lợi từ cải cách quyền sở hữu trí tuệ
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Các chiêu lừa đảo trực tuyến dịp cuối năm
  • Trận chiến chống rửa tiền (bài 1)
  • Trận chiến chống rửa tiền (bài 2)
  • Trận chiến chống rửa tiền (bài 3)
  • Lương chủ tịch, tổng giám đốc cao hay thấp ? Lương hay lậu ?
  • Nấm linh chi: Thật giả khó lường
  • Hàng trên mạng: Tin là... “chết”!
  • Thép Đông Nam Á bị cáo buộc vi phạm thương hiệu VNSTEEL
  • Hành vi chậm nộp hồ sơ đăng ký thuế bị xử lý như thế nào?
  • Trục lợi bảo hiểm: Muôn hình vạn trạng
  • Quyền khởi kiện thành viên HĐQT, giám đốc
  • Thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng bất động sản: 2% hoặc 25%