Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (25): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 1

Chương 11: VÙNG ĐỒNG BẰNG VÀ THẢO NGUYÊN LỚN

Nhà sử học Walter Prescott Webb, trong cuốn sách của ông với tựa đề Vùng đồng bằng Lớn (The Great Plains) cho rằng những người gốc Tây Bắc Âu, tới định cư rất đông ở nước Mỹ, phải đối đầu với “ba thách thức lớn về môi trường” – những điều kiện khí hậu không giống như ở quê hương họ, cho nên các cây trồng nông nghiệp và các hình mẫu định cư đã được hình thành ở châu Âu tỏ ra không phù hợp. Thách thức đầu tiên trong số này là nhiệt độ mùa hè và độ ẩm cao của vùng Đông Nam. Thách thức thứ hai là vùng Tây Nam và vùng nội địa phía Tây khô cằn. Thách thức thứ ba là những đồng cỏ liên tục chạy dài theo một phía ở trung tâm đất nước (bản đồ 10).

Một trong những khó khăn của vùng đồng cỏ là lượng nước mưa trung bình hàng năm thấp hơn nhiều so với phía đông, mặc dù nơi đây thường xuyên có bão mạnh đi kèm với gió lớn, mưa đá và các cơn lốc xoáy. Những cơn bão tuyết với những đợt giá lạnh mùa đông càng làm tăng thêm cái lạnh, tạo nên những tảng băng khổng lồ. Những đợt gió mùa hè khô và nóng nung nóng lớp đất và đôi khi cuốn chúng đi bằng những đám mây bụi cuồn cuộn.

Nguồn cung ứng nước tự nhiên ít ỏi của khu vực không đủ để đảm bảo cho việc trồng cây và hoa màu ngoại trừ những vùng nằm dọc theo những con suối. Phần lớn suối ở đây nhỏ và chảy không liên tục. Nông dân ở miền Đông, vốn đã quen với một lượng nước dồi dào cung cấp cho mùa màng và gia súc, cũng như lượng gỗ dư thừa cho việc xây nhà, làm hàng rào và sưởi ấm, nay phải nỗ lực thích nghi những điều kiện khác hẳn để định cư tại Great Plains.

Môi trường của Great Plains

Địa hình và thực vật của vùng đồng cỏ là một trong những dạng ít biến đổi nhất được thấy ở bất kỳ nơi nào của Hoa Kỳ. Những người định cư ban đầu đã men theo vùng Oregon Trail chỉ trong một mùa hành trình đã có thể tới được vùng bờ biển Thái Bình Dương, một phần vì các vùng thảo nguyên địa hình rất dễ đi lại. Khu vực này nằm hoàn toàn trong khu vực địa vật lý học đất thấp, nằm sâu trong lục địa. Các lớp đất trầm tích nằm thoai thoải. Độ cao so với mặt nước biển trung bình tăng dần từ phía đông tới phía tây, hầu như rất khó nhận ra. Dọc theo vùng rìa phía đông, độ cao chỉ có 500 m, trong khi ở phía tây, vùng Denver, Colorado, có độ cao tới hơn 1500 m.

Về mặt địa văn học, phần lớn nhất của Great Plains là vùng Đồng bằng Cao (High Plains) trải dài dọc theo rìa phía tây của khu vực, từ miền nam Texas theo hướng bắc tới miền nam Nebraska. Được bao bọc bởi các lớp trầm tích dày thường cấu tạo hoàn toàn bằng cát và rất xốp, vùng đất này nói chung bằng phẳng. Chỉ có dọc theo các con suối, như ở Scottsbluff trên sông Platte nằm ở phía tây Nebraska, hoặc ở khe núi Palo Duro thuộc sông Hồng nằm ở tây bắc Texas, sự xói mòn đã dẫn đến những độ cao khu vực đáng kể. Vùng Lòng chảo Hồ Agasiz, trước kia là hồ lớn nhất trong số các hồ Pleistocene, là vùng đất đặc biệt bằng phẳng bao gồm thung lũng sông Hồng ở phía bắc Dakota và Minnesota.

Không phải tất cả các vùng của khu vực này đều ít thay đổi về mặt địa hình như thế. Ngoại lệ rõ nhất là Black Hills ở Nam Dakota và Wyoming. Là một vùng đất rộng, hình vòm được tạo bởi đá nham thạch bị ăn mòn, về phía tây Black Hills gắn liền cả về mặt địa lý và địa hình với Rocky Mountains. ở phía nam Texas, Cao nguyên Edwards bị xói mòn nặng nề, trở thành một khung cảnh các khe sâu chạy dọc theo rìa phía đông nam, sát với vùng đồng bằng ven biển. ở trung tâm và tây bắc Nebraska, Sand Hills là các đụn cát được bao phủ bởi cỏ rậm, chằng chịt, có rất nhiều đụn cát trong số đó cao tới trên 30m. Những đụn cát này được tạo ra bởi cát cuốn theo dọc các rìa phía nam của các núi băng nằm trong lục địa vào thời kỳ Băng hà. Vùng địa hình đất xấu – những đặc trưng hết sức khác thường được hình thành từ sự xói mòn các lớp đá trầm tích do gió và nước gây ra – trải rộng trên Cao nguyên Missouri không bị đóng băng, từ phía bắc Nebraska theo hướng bắc tới sông Missouri. Vùng bắc sông Missouri và phía tây Lòng chảo Hồ Agassiz, Cao nguyên Missouri phủ băng, mặc dù đôi chỗ bằng phẳng, nhưng vẫn bị che phủ bởi các ao hồ, các khối băng và các đặc điểm khác liên quan tới băng.

Mặc dù nông nghiệp đã phá hủy nhiều thảm thực vật ban đầu của đồng cỏ, nhưng các vùng ẩm ướt ở phía đông (các vùng ở phía bắc có lượng nước mưa hàng năm hơn 60cm và ở phía nam hơn 90cm) ban đầu là những đồng cỏ liên tục với các loại cỏ cao từ 30 cm đến 1 m. Dọc theo các vùng rìa phía tây của đồng bằng này, các loại cỏ thảo nguyên đã dành chỗ cho các cỏ mọc thành chùm – ngắn hơn, các loại cỏ khác lạ này có thể sống được trong những điều kiện nửa khô cằn của các vùng đồng bằng phía tây.

Các loại cỏ thảo nguyên mọc ra những chùm rễ sâu, chằng chịt và thường lan rất sâu vào lòng đất hơn những loại cỏ lá mảnh chỉ ăn rễ vào phía trên, điều này giúp cho chúng có thể hút được nhiều nước. Hệ thống rễ chằng chịt khiến cho việc cày bừa trên thảo nguyên cực kỳ khó khăn. Những người đi khai hoang đầu tiên đã phải sử dụng những chiếc cày lớn đào lên khoảng 20 loại cây, cỏ trước khi vỡ đất. Đất thảo nguyên cũng có thể được “xắn” ra thành những viên gạch lớn dùng để xây các ngôi nhà bằng đất trong thời kỳ đầu khi những người gốc Âu đến định cư tại vùng đồng bằng.

Luồng không khí ven biển nhiệt đới ẩm và ấm áp thổi từ Vịnh Mexico vào, yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự ẩm ướt của Great Plains, thường lượn qua thung lũng Mississippi và sau đó di chuyển theo hướng đông bắc, hầu như hoàn toàn bỏ qua phía tây của Great Plains. Một kết quả do kiểu di chuyển này gây ra là sự sụt giảm lượng mưa trung bình ở hướng tây. Chẳng hạn, các lượng mưa trung bình hàng năm ở Kansas rất khác nhau, từ mức ẩm ướt 105 cm ở phía đông nam đến mức nửa khô hạn 40 cm ở phía tây nam.

Những thời kỳ có lượng mưa cao hơn bình thường tại Great Plains diễn ra khi những khối không khí nhiệt đới từ Vịnh Mexico di chuyển theo hướng tây bắc, qua các khu vực của Great Plains. Tuy nhiên, luồng không khí dự phòng này rất thất thường. May mắn cho những người nông dân của Great Plains, khoảng 3/4 lượng mưa ở đây nhận được vào thời kỳ vụ mùa đang phát triển nhanh, từ tháng 4 đến tháng 8.

Một phần của lượng mưa trong khu vực vào mùa xuân và mùa hè do các đợt bão mạnh kèm sấm, chớp đem tới. Thỉnh thoảng những cơn bão này tạo ra mưa đá. Những viên đá nhỏ này, đôi khi có kích thước bề ngang lớn hơn 5 cm, có sức mạnh tàn phá các cánh đồng lúa mì chín rộ, nặng trĩu. Rất nhiều nơi ở phía nam và tây - trung tâm của Great Plains thường xuyên phải hứng chịu những đợt bão kèm mưa đá, với các vùng phía tây Nebraska và phía đông nam Wyoming dẫn đầu cả lục địa về số lần mưa đá trung bình trong năm.

Các cơn lốc xoáy, có thể có tốc độ gió vượt quá 350 km/h, là một hậu quả ghê gớm khác của những hệ thống bão ở Great Plains. Mặc dù phần diện tích bị ảnh hưởng bởi một cơn lốc xoáy bất kỳ là nhỏ, nhưng sự xuất hiện thường xuyên của những cơn lốc này ở trung tâm của Great Plains đã khiến cho chúng trở thành hiểm họa lớn đối với khu vực.

Gió lại là nguồn lợi nhiều mặt cho Great Plains. Những đợt gió vào cuối mùa xuân và mùa hè thổi vào trung tâm và nam của Great Plains là một trong những đợt gió có tốc độ cao nhất ở lục địa châu Mỹ. Trong quá khứ, điều này giúp tối đa hóa hiệu quả của các cối xay gió trong khu vực. Tuy nhiên, những đợt gió liên tục này cũng đồng nghĩa với lượng độ ẩm của cây cối ở nhiều nơi trong khu vực bị bốc hơi và thoát hơi thường xuyên.

Gió chinook, một loại gió mùa đông, thường xuất hiện khi không khí khô và tương đối ấm từ bờ biển Thái Bình Dương tràn qua Rocky Mountains. Khi luồng không khí này đổ bộ xuống Great Plains, nó vẫn còn ấm, và ấm hơn nhiều so với khối không khí lạnh của lục địa thường thấy ở khu vực này vào mùa đông. Khí ấm từ Thái Bình Dương tạm xua đi bầu khí lạnh của miền tây Great Plains và nhanh chóng làm cho nhiệt độ tăng cao. Một phần nhờ có hiện tượng thú vị này mà nhiệt độ mùa đông dọc các vùng cao hơn ở phía tây lại ấm hơn đôi chút so với nhiệt độ dọc rìa phía đông của Great Plains.

Ngoài ra, độ dài của mùa không có sương giá dao động rất lớn quanh mức trung bình qua từng năm. Cũng giống như dải nhiệt độ hàng năm, sự biến thiên này tăng dần khi chuyển dần lên hướng bắc.

Tuyết, gió và lạnh là tất cả các bộ phận tạo thành một trong những yếu tố thời tiết phá hoại mạnh mẽ nhất ở Great Plains: bão tuyết. Một đợt bão tuyết dữ dội xuất hiện vào mùa đông khi khối không khí cực kỳ lạnh từ cực Bắc tràn xuống phía nam dọc theo Rocky Mountains và đổ xuống Great Plains, phá vỡ mô hình bão thường đi từ tây sang đông. Những đợt bão này thường đi kèm với gió mạnh, giá lạnh, và một lượng tuyết đáng kể. Một đợt bão tuyết có thể kéo dài trong nhiều ngày và mang tới một nửa lượng tuyết trung bình của mùa đông. Do những người chăn nuôi gia súc ở Great Plains thường để gia súc của họ ở ngoài trời vào mùa đông nên một đợt bão tuyết khốc liệt có thể sẽ đóng băng thức ăn của chúng lại và vì thế khiến cho nhiều gia súc bị chết.

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (16): Appalachia và Ozark - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (17): Appalachia và Ozark - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (18): Vùng cực nam -Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (19): Vùng cực nam -Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (20): Vùng cực nam -Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (21): Vùng đất ven biển phía nam - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (22): Vùng đất ven biển phía nam - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (23): Vùng trọng điểm nông nghiệp - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (24): Vùng trọng điểm nông nghiệp - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (25): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (26): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (27): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (28): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (29): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (30): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 3