Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (26): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 2

Các hình mẫu định cư

Việc cư ngụ của những người Mỹ bản địa tại Great Plains trước khi người châu Âu đặt chân đến đây bị hạn chế. Săn bắn, đặc biệt là săn bò, là hoạt động kinh tế quan trọng nhất. Phần lớn các bộ tộc sống dọc các dòng suối trong những khu định cư bán vĩnh viễn. Do không có một phương tiện nào cho việc di chuyển nhanh với khoảng cách lớn trên đường bộ (chó là loài vật nuôi duy nhất ở Bắc Mỹ trước khi người châu Âu đặt chân lên đây), những người Mỹ bản địa không thể rời bỏ những nguồn cung cấp nước đều đặn từ các con suối để đi đâu đó dài ngày. Đây là một trở ngại khá lớn đối với việc di chuyển những đàn bò lớn, bởi vì những người Mỹ bản địa phải thường đưa chúng tới nguồn cung cấp thực phẩm xa những nơi định cư trong nhiều tuần.

Khi người Tây Ban Nha rời khỏi miền Nam Great Plains để tiếp tục những đợt thám hiểm ban đầu của họ, họ đã để lại nơi đó một vài con ngựa, một “món quà” đã làm đảo lộn lối sống của những người Mỹ bản địa ở Great Plains. Khi những người Mỹ đặt chân lên Great Plains vào đầu thế kỷ thứ 19, họ đã nhìn thấy loài vật được nhiều người gọi là tên lính chiến thanh mảnh, xuất sắc nhất trong lịch sử thế giới. Loài ngựa được chăn nuôi trên khắp các vùng đồng cỏ, và những người Mỹ bản địa của Great Plains không còn bị trói buộc vào các nguồn nước, đã tự do rong ruổi theo những đàn bò đi di cư.

Nhận thức ban đầu của người Mỹ không hoàn toàn sai về khu vực này - một nơi không có gì hứa hẹn và khó sinh sống. Tình trạng không có các loại cây thân gỗ có nghĩa là những người nông dân không có bất cứ một thứ nguyên liệu truyền thống nào để xây dựng nhà và chuồng trại cho gia súc, làm hàng rào và nhiên liệu. Các nguồn nước thì khan hiếm, sông và suối thường chỉ chảy theo mùa. Những người tới đây sớm đã định cư dọc theo những nguồn nước này. Các loại cây trồng mà những người định cư mang theo tới Great Plains thường không sống được và sự thành công của các loại cây trồng rất khác nhau theo từng năm do lượng nước mưa dao động mạnh. Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp nói chung cũng thấp, và quy mô đất canh tác 65 ha tưởng chừng là thích hợp, nhưng với các vùng xa hơn về phía đông của Great Plains thì lại tỏ ra quá nhỏ.

Đường ranh giới định cư vẫn chập chờn quanh ranh giới phía đông của Great Plains một phần là do những vấn đề này. Những người định cư có xu hướng bỏ qua Great Plains để đến với vùng Bờ biển Thái Bình Dương, cho tới khi những thay đổi về công nghệ và quyền sở hữu đất đai khiến cho việc định cư tại Great Plains trở nên hấp dẫn hơn.

Trong tình trạng chập chờn đó, một hệ thống kinh tế khác đã tràn qua khắp khu vực. Một nền kinh tế chăn nuôi mở rộng đã được những người gốc Tây Ban Nha đưa vào miền Nam Texas và những người Mỹ đi tìm nơi định cư từ phía Nam đem đến miền đông Texas. Nền kinh tế này lan rộng từ Texas lên phía bắc trong suốt thời kỳ từ 1867 đến 1885.

Những bầy gia súc lớn được chuyển từ phía nam Texas theo hướng bắc bằng xe lửa đến Kansas để sau đó đóng lên tàu thủy chuyển về phía đông hoặc để cung cấp cho Great Plains, tương đối ít dân cư. Cho tới năm 1880, có khoảng 5 triệu đầu gia súc đã được luân chuyển.

Nền kinh tế chăn thả tự do đã mau chóng bị sụp đổ vào cuối những năm 1880. Việc nuôi thả gia súc tràn lan, sự cạnh tranh của thịt bò cao cấp từ những cơ sở chăn nuôi gia súc đang mở rộng ở vùng Midwest, một nền kinh tế quốc gia đang đi xuống, mùa đông khủng khiếp năm 1887-1888, và sự nhanh chóng bất ngờ của dòng người tràn vào Great Plains, tất cả kết hợp lại, chấm dứt thời kỳ ngắn ngủi này của lịch sử nước Mỹ. Chăn nuôi gia súc theo phương thức chăn thả tự do, không được cải tiến, bị đẩy tới phía tây khô cằn hơn của Great Plains hoặc bị buộc phải áp dụng phương thức hoạt động hạn chế hơn và có rào chắn.

Trên đường ranh giới nông nghiệp, dây thép gai, mặt hàng buôn bán được mua bán từ những năm 1870, đã cung cấp một thứ nguyên liệu làm hàng rào khác có hiệu quả, thay thế cho nguồn gỗ đang bị mất dần. Trong một thời gian, những ngôi nhà ở dựng bằng cỏ đã đem lại một chỗ ở thỏa đáng. Tuy nhiên, phần lớn những người định cư đã mau chóng thay thế chúng bằng những ngôi nhà làm bằng gỗ. Gỗ xẻ để làm nhà được đưa tới bằng các tuyến đường sắt được xây dựng đi xuyên qua Great Plains từ những năm 1870. Việc xây dựng cối xay gió đơn giản và những thiết bị cơ khí khoan giếng đồng nghĩa với việc có thể có đủ nước cho con người và gia súc, cũng như cho việc tưới tiêu. Chính sự áp dụng rộng rãi công nghệ cối xay gió ở các vùng đồng cỏ đã khiến cho nó được chấp nhận ở hầu hết các vùng nông thôn của Mỹ. Việc trồng lúa cũng ngày càng được cơ giới hóa, giúp cho người nông dân có thể cày bừa, trồng trọt trên những trang trại lớn hơn và nhờ thế bù đắp cho những mức sản lượng thấp.

Rốt cuộc, những loại cây trồng được thích nghi tốt hơn với những điều kiện trồng trọt của khu vực đã được đưa vào hệ thống nông nghiệp, và nông dân đã bắt đầu nâng cao được sự hiểu biết của họ về việc phải tận dụng môi trường của Great Plains như thế nào. Giống lúa mì mùa đông có lẽ là một ví dụ điển hình. Lần đầu tiên giống lúa mì mùa đông được những người dân Mennonite di cư từ Nga mang tới Hoa Kỳ, nó đã tỏ ra thích nghi hơn nhiều với những điều kiện trồng trọt khô hanh của Great Plains, so với giống lúa mì được trồng trước đó ở đây.

Ngày nay, Great Plains là khu vực sản xuất lúa mì hàng đầu của nước Mỹ, và chủ yếu nhờ có nền nông nghiệp nội địa của Great Plains thịnh vượng mà Hoa Kỳ trở thành nhà xuất khẩu lúa mì hàng đầu trên thế giới.

Nông nghiệp vùng đồng bằng

Ngành nông nghiệp của Great Plains có quy mô lớn và sử dụng nhiều máy móc, chủ yếu chỉ bao gồm một số loại cây trồng, trong đó quan trọng nhất là lúa mì. Giống lúa mì mùa đông được trồng vào mùa thu. Trước khi bước vào thời kỳ không phát triển trong mùa đông, những cây lúa mì chỉ cao có vài centimét. Chúng phát triển mạnh nhất vào mùa xuân và vào đầu mùa hè, khi lượng nước mưa là nhiều nhất và trước khi xuất hiện những đợt gió khô nóng của mùa hè. Vụ mùa này được thu hoạch vào cuối tháng 5 và tháng 6. Ngày nay, giống lúa mì mùa đông được trồng ở rất nhiều vùng của Hoa Kỳ, nhưng khu vực trọng tâm của nó là phía Great Plains từ phía bắc Texas tới phía nam Nebraska.

Giống lúa mì xuân - được trồng chủ yếu từ vùng trung tâm của Nam Dakota theo phía bắc tới Canada - được trồng vào đầu mùa xuân và thu hoạch vào cuối mùa hè hoặc mùa thu. Giống lúa mì này phù hợp với những khu vực có mùa đông khắc nghiệt đến nỗi giống lúa mì đông đang nảy mầm cũng có thể bị chết.

Phần lớn lúa mì vùng thảo nguyên được trồng bằng các kỹ thuật trồng trọt khô, không có hệ thống tưới tiêu. Đất được cày bừa rất sâu để làm đứt cỏ và để chậm bay hơi. Điều nhìn thấy rõ nhất, đặc biệt ở phía bắc Plains, là việc sử dụng rộng rãi các mảnh đất hoang, đất ở những nơi đó được cày bừa và khai hoang nhưng không trồng cây để giữ độ ẩm cho mùa trồng trọt.

Bắt đầu vào khoảng mồng 1 tháng 6, với việc thu hoạch vụ lúa mì mùa đông ở Texas, những đội máy gặt đập liên hợp chuyên nghiệp lại tiến dần về phía bắc đến với việc thu hoạch ở đó. Không giống như những người lao động nông nghiệp di cư thu hoạch các cây trồng khác, những người dân này thường tập hợp thành những đội lớn sử dụng nhiều máy gặt đập liên hợp và xe tải, và họ thường là những công nhân nông nghiệp được trả lương cao. Các nông trại trên phần lớn "Vành đai lúa mì" hiện đã vượt quá 400 hecta, điều này có nghĩa là ngày càng có nhiều nông dân trồng lúa mì có thể có đủ tiền để mua máy gặt đập liên hợp cho riêng họ. Hơn nữa, có lẽ khoảng 1/3 toàn bộ khối lượng lúa mì của Great Plains được thu hoạch bởi những đội máy gặt đập liên hợp chuyên nghiệp này.

Một vấn đề lớn đối với việc trồng lúa mì đem lại lợi nhuận này là sự khó khăn trong việc di chuyển nhanh lúa mì thu hoạch được tới nơi cất trữ trong những nhà chứa thóc lớn nằm rải rác ở Plains. Sự cạnh tranh giữa phương tiện chuyên chở bằng xe tải và bằng xà lan ở nhiều nơi thuộc khu vực trồng giống lúa mì mùa đông, đã khuyến khích các tuyến đường sắt bỏ qua những kho chứa thóc nhỏ ở vùng nông thôn để đến với những tổ hợp lớn hơn nhiều thường nằm ở những thị trấn lớn hơn. Phần lớn lúa mì xuất khẩu được vận chuyển qua Great Lakes hoặc bằng xà lan theo hệ thống đường thủy nội địa và sông Mississippi.

Cây lúa miến (một loại kê được trồng làm cây lương thực ở vùng khí hậu ấm - ND) đã trở thành một loại cây trồng quan trọng ở phía nam Plains trong vài thập niên gần đây. Có thể chịu được những điều kiện trồng trọt khô, giống lúa châu Phi này hiện đã có một tầm quan trọng tương đương với giống lúa mì mùa đông ở các vùng rìa phía tây Plains có khí hậu khô và nóng. Hiện nay cả Texas và Nebraska đều dành nhiều đất trồng trọt cho cây lúa miến hơn là cho lúa mì. Phần lớn lúa miến thu hoạch xong được cất trữ làm thức ăn cho gia súc.

ở phía bắc Plains, lúa mạch và yến mạch là cây trồng quan trọng thứ hai, với phần lớn vụ mùa lúa mạch trồng trong lục địa được thu hoạch ở các vùng từ Lòng chảo Hồ Agassiz của Bắc Dakota và Minnecsota. Hầu hết những hạt lanh được trồng ở Bắc Mỹ cũng được trồng ở phía bắc Plains. Các cây hướng dương, một nguồn cung cấp dầu thực vật và là thành phần quan trọng trong nhiều loại thức ăn gia súc, cũng mau chóng chiếm một tầm quan trọng trong khu vực Thung lũng sông Hồng của Minnesota và Bắc Dakota.

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (16): Appalachia và Ozark - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (17): Appalachia và Ozark - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (18): Vùng cực nam -Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (19): Vùng cực nam -Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (20): Vùng cực nam -Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (21): Vùng đất ven biển phía nam - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (22): Vùng đất ven biển phía nam - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (23): Vùng trọng điểm nông nghiệp - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (24): Vùng trọng điểm nông nghiệp - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (25): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (26): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (27): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (28): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (29): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (30): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 3