Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (24): Vùng trọng điểm nông nghiệp - Phần 2

Đáp ứng của nông nghiệp

Khi đường ranh giới định cư dịch chuyển về hướng tây đi xuyên qua vùng Trọng điểm Nông nghiệp từ đầu thế kỷ thứ 19, nó kéo theo một làn sóng trồng lúa mì cung cấp cho các thị trường phía đông. Những khối lúa mì nguyên hạt chưa qua sơ chế không phải là một vấn đề lớn đối với những nhà chuyên chở khi mạng lưới giao thông đường thủy vẫn thông suốt, nhưng các cơ sở xay xát lúa mì đã mau chóng được thành lập tại các điểm trung chuyển (chẳng hạn như Cincinnati trên sông Ohio) hoặc tại những khu vực mà phương thức vận chuyển lúa mì được thay đổi (chẳng hạn như Buffalo, New York, bến đỗ cuối cùng của kênh Erie). Việc trồng lúa mì liên tục trên những lớp đất của khu vực này tỏ ra khó khăn, tuy nhiên, những khu vực trồng trọt hàng đầu đã dịch chuyển về phía tây cùng với sự mở rộng đường ranh giới định cư.

Đối với những người nông dân còn ở lại phía sau, sản phẩm nông nghiệp có chất lượng tốt nhất đứng sau lúa mì là gia súc gia đình. Việc nuôi bò và lợn phát triển. Việc trồng ngũ cốc làm thức ăn gia súc và nuôi gia súc đem lại lợi ích kinh tế chắc chắn đến mức nó mau chóng thay thế việc trồng lúa mì, trở thành hệ thống nông nghiệp thống trị trong toàn vùng Trọng điểm Nông nghiệp.

Ngô là loại ngũ cốc thỏa mãn một cách đầy đủ nhất sự kết hợp giữa các yêu cầu về môi trường và lợi nhuận kinh tế cao. Rất thích nghi với khí hậu mùa hè ẩm ướt, cây ngô phát triển nhanh chóng trong suốt cả những ngày dài nóng bức lẫn những buổi đêm ấm áp của khu vực. Ngoài ra, năng suất cao còn do các cây có thể mọc sát nhau và mỗi một cây có thể sản sinh ra hai bắp ngô hoặc nhiều hơn. Thêm nữa, lượng lá rất nhiều của mỗi cây có thể được thái ra và trộn thêm các thứ phụ gia để dùng làm thức ăn gia súc.

Nông nghiệp kết hợp với trồng trọt và chăn nuôi gia súc đã đem lại cho những người nông dân ở đây một sự đảm bảo về kinh tế vượt xa bất cứ khu vực nông nghiệp nào khác của Hoa Kỳ.

Một đặc trưng độc đáo của cảnh quan trung tâm vùng Trọng điểm Nông nghiệp là mô hình ruộng hình chữ nhật. 13 bang ban đầu của nước Mỹ mở rộng địa giới bên trong theo một cách thức không có hệ thống, sử dụng hệ thống mốc và giới hạn theo kiểu phân bổ theo lô, dựa vào các đặc điểm địa hình có thể nhìn thấy, các hướng la bàn và đơn vị đo chiều dài. Các kết quả được tạo ra không chính tắc này đã thường xuyên bị giải thích lẫn lộn và gây tranh chấp. Theo Sắc lệnh năm 1785, miền đất phía bắc sông Ohio và phía tây Pennsylvania, được biết tới như là Vùng đất mới Tây Bắc (Northwest Territory), đã được ấn định ranh giới theo đơn vị đo township(1) cho hình chữ nhật chuẩn và theo sự đo đạc đất đai trước khi nó mở cửa cho việc định cư. Tính logíc không thể phủ nhận của hệ thống này vẫn còn thấy rõ qua hệ thống đường bộ chủ yếu là vuông góc của nhiều vùng của Hoa Kỳ giữa Appalachia và Rockies.

Trong khi hệ thống trắc địa và những hiện trạng về sinh thái và kinh tế của vùng Trọng điểm Nông nghiệp đã tạo ra một sự đồng nhất tất yếu cho miền đất này thì vẫn có những phần của vùng Trọng điểm Nông nghiệp nằm ngoài "Vành đai ngô". ở vùng Wisconsin và miền trung tâm Minnesota, phía bắc của các trung tâm sản xuất ngũ cốc, nơi mà khí hậu đã ngăn không cho ngũ cốc chín, nông dân đã chọn nghề nuôi gia súc lấy sữa như một sự thay thế có lợi. Ngô tươi, các loại ngũ cốc khác như lúa mạch và yến mạch, và những vụ cỏ khô dồi dào đã cung cấp một thứ thức ăn tuyệt hảo cho các bầy gia súc lớn nuôi lấy sữa. Khi nguồn cung cấp sữa tươi đã vượt quá ngay cả nhu cầu lớn về sữa của các thành phố lân cận, lượng sữa này được chuyển thành bơ và phomát để dành cho những chuyến tàu thong thả hơn chuyên tới những thị trường xa hơn. Wisconsin tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng sữa thặng dư của nước Mỹ và chiếm khoảng một nửa sản lượng phomát của nước này.

Một sự mở rộng đặc biệt nữa của các đường ranh giới của vùng Trọng điểm Nông nghiệp diễn ra xung quanh vùng phía tây Great Lakes, nơi có thể trồng được cây ăn trái trên một dải đất hẹp dọc theo bờ Hồ Michigan thuộc Wisconsin và Michigan. Tác dụng điều hòa của vùng hồ đã làm chậm sự ra hoa của cây ăn quả trong mùa xuân, thường đến tận khi kết thúc đợt sương giá cuối cùng, và nó cũng cản trở đợt sương giá lạnh thấu xương đầu tiên đến vào mùa thu. Việc trồng các loại cây anh đào, táo và với mức độ ít hơn là nho, đều quan trọng. Dọc theo vùng bờ Hồ Erie ở phía nam, đặc biệt là một vài vùng ven hồ ở Pennsylvania và phía tây New York, nơi mà sản xuất nho rất quan trọng từ suốt một thế kỷ nay, cũng chịu một ảnh hưởng tương tự.

Những thay đổi trong hình mẫu

Vùng Trọng điểm Nông nghiệp đã là một địa điểm của khá đông người định cư từ năm 1980 và hệ thống trồng ngô kết hợp với nuôi gia súc, đã từng ăn nên làm ra ở phía nam Ohio, đã được dịch chuyển đến phía tây giáp với rìa của Great Plains với một vài điều chỉnh mang tính địa phương. Những cải tiến công nghệ ban đầu như máy gặt (1831), máy cày bằng thép (1937) và các thiết bị khác đáp ứng hoạt động kinh tế hàng đầu này của khu vực đều nhằm đảm bảo cho sự thành công của hệ thống này. Tuy nhiên những thay đổi gần đây hơn đã kích thích một sự điều chỉnh đối với các mô hình địa lý truyền thống.

Một trong những thay đổi tinh tế hơn của các hình mẫu Vành đai ngô là tầm quan trọng ngày càng tăng của cây đậu tương từ những năm 1950. Mãi đến tận năm 1925 mới có chưa đầy 200.000 hecta đậu tương được thu hoạch ở Hoa Kỳ. Cho tới năm 1949, diện tích trồng đậu tương đã tăng lên đến 4,5 triệu hecta và trong 20 năm tiếp theo đó, lên tới 16,1 triệu hecta; trong vùng Trọng điểm Nông nghiệp, đậu tương chiếm trên 10 triệu hecta. Ngày nay trên khắp nước Mỹ cây đậu tương được trồng trên khoảng 20 triệu hecta.

Có một số lý do dẫn tới sự gia tăng mạnh mẽ của việc trồng cây đậu tương. Trước hết, là một cây họ đậu, đậu tương có tác dụng cải tạo đất bằng cách làm tăng hàm lượng nitơ trong đất nơi chúng được trồng. Thứ hai, cây đậu tương nói chung có thể trồng được tại hầu hết các vùng phía đông Hoa Kỳ, thậm chí cả ở những vùng chỉ có lượng mưa trung bình hàng năm chưa tới 50 cm nhưng có thể sử dụng hệ thống tưới nước. Thứ ba, hạt đậu tương có thể ăn trực tiếp được hoặc qua xay sát để chế biến thành dầu ăn thực vật và bột đậu tương ít chất béo nhưng rất giàu protein. Bột đậu tương từng được sử dụng chủ yếu làm chất bổ sung thức ăn gia súc, nhưng lượng bột đậu tương được con người đưa vào tiêu dùng ngày càng tăng lên. Và thứ tư là, tình hình thực phẩm và thức ăn gia súc trên thế giới vẫn đang có nhu cầu cao về đậu tương xuất khẩu. Điều này đã giữ cho giá đậu tương tương đối ổn định và là một yếu tố khích lệ đối với nông dân.

Sự kết hợp những ưu thế này đã tập trung một khối lượng lớn việc trồng cây đậu tương vào vùng Trọng điểm Nông nghiệp. Các vụ luân canh truyền thống kéo dài 3 năm và 4 năm dần dần nhường chỗ cho vụ luân canh ngô - đậu tương kéo dài 2 năm. Trong một vài trường hợp ở các vùng phía nam vùng Trọng điểm Nông nghiệp, các dạng cây đậu tương chín sớm có thể được trồng vào cuối mùa xuân, sau khi thu hoạch vụ lúa mì vào mùa đông, giúp cho người nông dân cứ 2 năm thu hoạch được 3 vụ mùa (ngô, lúa mì và đậu tương) mà không năm nào bị giảm sút mạnh về năng suất.

Một tập hợp những thay đổi phức tạp hơn về địa lý của vùng Trọng điểm Nông nghiệp được tạo ra từ những trình độ mới của cơ giới hóa và những lựa chọn về quy mô trung bình của trang trại. Cuộc đo đạc đất đai đầu tiên trong khu vực đã qui định quy mô tối thiểu của trang trại được mua là 64,75 hecta (160 mẫu Anh) và sau đó vào những thời điểm khác nhau, mức tối thiểu được qui định lại bằng 1/2 hoặc 1/4 mức ban đầu. Sau lần mua đầu tiên, tất nhiên, mảnh đất canh tác này có thể được chia thành nhiều mảnh nhỏ và thậm chí được bán theo những lô nhỏ hơn hoặc được ghép vào những trang trại đã có từ trước.

Cho tới năm 1900, qui mô trang trại của những bang thuộc vùng Trọng điểm Nông nghiệp có nhiều dạng khác nhau: khoảng 1/3 số trang trại có qui mô từ 73 hecta đến 202 hecta, 1/3 khác có qui mô từ 40 hecta đến 72 hecta, và phần lớn số còn lại nhỏ hơn 40 hecta. Số đất trong những trang trại có qui mô nhỏ hơn 73 hecta bắt đầu giảm từ sau năm 1935. Cho tới năm 1964, hơn 50% đất nông nghiệp trong những bang này thuộc về những trang trại có qui mô lớn hơn 105 hecta; cứ 5 hecta lại có 1 hecta thuộc về những trang trại lớn hơn 202 hecta, xu hướng này hiện vẫn đang diễn ra.

Những lý do của những thay đổi này về qui mô trang trại là mang tính kinh tế và liên quan tới việc cơ giới hóa các hoạt động sản xuất. Các nông dân vùng Trọng điểm Nông nghiệp đã tận dụng những phát minh về cơ khí để tăng sản lượng trên một giờ công của họ. Những cánh đồng lớn và những vùng địa thế thuận lợi trong khu vực ngay từ buổi đầu cũng như bây giờ, đã cho phép sử dụng các máy nông nghiệp, những máy móc mà không thể vận hành ở những trang trại nhỏ hơn và ở những trang trại vùng gò đồi có xu hướng bị xói mòn.

Tình trạng thiếu lao động do Chiến tranh Thế giới Thứ hai gây ra vào đầu những năm 1940 đã thúc đẩy hơn nữa quá trình cơ giới hóa và các phát minh ngày càng được hướng tới các hoạt động sản xuất với qui mô lớn. Thiết bị 2 và 4 luống nhường chỗ cho thiết bị từ 6 đến 8 luống. Các hoạt động lưu kho và vận chuyển bằng tàu cũng được cơ giới hóa và ngày càng phù hợp với những yêu cầu của những nhà sản xuất với qui mô lớn.

Cùng với những thay đổi về qui mô trang trại, số lượng đất được canh tác trong khu vực cũng dần dần giảm xuống. Năm 1987, tỷ lệ đất thuộc các trang trại ở phần lớn các vùng trong khu vực vào khoảng 80%, riêng phần lớn vùng Iowa và Illinois đạt tới trên 90%. Mặc dù vậy, trong vòng hai thập niên qua vùng Trọng điểm Nông nghiệp đã có không ít khu vực trải qua thời kỳ  cắt giảm đất canh tác.

Mặc dù kiểu canh tác hộ gia đình hoạt động riêng rẽ, hoàn toàn tự chủ vẫn còn là phương thức thống trị, nhưng nó đang mau chóng biến mất tại các bang của vùng Trọng điểm Nông nghiệp. Sự giảm sút này còn kết hợp với những nhu cầu về tính hiệu quả ngày càng tăng trong canh tác. Nỗ lực của con người và sự liên kết của các cá nhân vẫn góp phần tạo ra thành công trong quá trình canh tác, nhưng yếu tố qui mô ngày càng trở nên quan trọng.

Do nhu cầu ngày càng cần nhiều đất hơn cho sản xuất, một số nông dân đã nhận thấy rằng việc thuê hoặc thuê mua thêm đất để thực hiện hơn việc trực tiếp mua đất. Một vài người sử dụng đất canh tác khác có thể hoàn toàn chỉ là những người lĩnh canh, họ lựa chọn làm việc cho người chủ đất thông qua một trong một số thỏa thuận. Ngoài ra, 1/3 số những người thuê đất canh tác đi thuê từ những người họ hàng của họ, thường là một cách để chuyển giao đất từ thế hệ này sang thế hệ khác.

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (16): Appalachia và Ozark - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (17): Appalachia và Ozark - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (18): Vùng cực nam -Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (19): Vùng cực nam -Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (20): Vùng cực nam -Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (21): Vùng đất ven biển phía nam - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (22): Vùng đất ven biển phía nam - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (23): Vùng trọng điểm nông nghiệp - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (24): Vùng trọng điểm nông nghiệp - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (25): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (26): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (27): Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (28): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (29): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (30): Vùng đất trống trong nội địa - Phần 3