Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Chính sách tài chính - tiền tệ và giải pháp giảm áp lực lạm phát

Sáng 16/4/2010, Báo Diễn đàn Doanh nghiệp, cơ quan của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức Diễn đàn: “Áp lực lạm phát và Chính sách Tài chính - Tiền tệ” nhằm bàn về giải pháp tháo gỡ áp lực lạm phát.
Từ trái qua phải: bà Dương Thu Hương – Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng, ông Phạm Gia Túc– Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VCCI, TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương trên bàn chủ tọa
 
Nội dung của Diễn đàn sẽ xoay quanh các vấn đề:
 
1.    Kinh tế vĩ mô 9 tháng cuối năm 2010
 
2.     Xu hướng vận động của lạm phát và giá cả 9 tháng cuối năm 2010
 
3.     Xu hướng điều hành chính sách tài chính của NHNN
 
4.     Xu hướng lãi suất, tỷ giá với lạm phát

Các diễn giả tham gia Diễn đàn gồm:

1. TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương

2. TS Vũ Đình Ánh - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính)

3. Ông Nguyễn Đại Lai - Chuyên gia tài chính
 
4. Bà Dương Thu Hương - Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng
 
Tới dự diễn đàn có: TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
TS Vũ Đình Ánh - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính), bà Dương Thu Hương – Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng, ông Phạm Gia Túc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VCCI cùng đại diện các doanh nghiệp.
 
Về phía các nhà tài trợ có: bà Bùi Thị Minh Tâm – PTGĐ công ty CP CK Sài Gòn – Hà Nội, ông Bùi Hồng Minh – TGĐ công ty Tài chính Xi măng, ông Đặng Minh Hải – PGĐ NHTM CP An Bình, Chi nhánh Hà Nội, ông Phùng Ngọc Quý – GĐ công ty Chế biến Kinh doanh lương thực – TP Hà Nội.
 
Ông Phạm Gia Túc– Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VCCI
 
 
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Phạm Gia Túc nhấn mạnh: "Như chúng ta đã biết, nền kinh tế thế giới dù được dự báo sẽ phục hồi và tăng trưởng trong năm 2010 nhưng quá trình này vẫn tiếp tục vấp phải không ít khó khăn thách thức. Áp lực lạm phát có nguy cơ bùng phát trở lại trên toàn cầu. Những thách thức này sẽ gián tiếp tạo ra sức ép nặng nề trong vấn đề điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này đã khẳng định sự đúng đắn, hợp lý trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô thời gian qua của Chính phủ. Tăng trưởng GDP trong quý I/2010 đạt mức 5,83%, cao hơn rất nhiều con số 3,14% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2010 đạt 6,5% mà Chính phủ đề ra trước đó rất khả thi. Hầu hết các lĩnh vực đều có sự bứt phá ấn tượng, khiến chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng ở mức tăng trưởng cao hơn khi nhu cầu thế giới thực sự phục hồi.
 
Vấn đề đặt ra là, trong bối cảnh nền kinh tế đang phục hồi sau khủng hoảng thì lạm phát có tái xuất hiện không, và nếu có sẽ ở mức độ nào? Định hướng điều hành chính sách tài chính - tiền tệ của chính phủ sẽ thế nào để nhằm đảm bảo mục tiêu cân bằng giữa tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Với chỉ số CPI trong tháng ba tăng trưởng ở con số 0,75 % so với tháng 2 - thấp hơn nhiều so với các dự báo được đưa ra trước đó nhưng là mức cao bất thường so với quy luật chung đang khiến cho yêu cầu ổn định kinh tế vĩ mô trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Tính chung cả quý I/2010, CPI đã tăng 4,12%.
 
Như vậy, để đảm bảo mục tiêu lạm phát cả năm ở mức 7%, nhiệm vụ của chính phủ sẽ trở nên khó khăn hơn. Ở góc độ doanh nghiệp, năm 2010, vấn đề đặt ra chính là giải quyết bài toán cân đối giữa chi phí đầu vào và đầu ra cho sản phẩm, cũng như giải quyết vấn đề vốn phục vụ cho sản xuất. Trong thời gian qua, giá một số mặt hàng đầu vào của doanh nghiệp đồng loạt được điều chỉnh tăng như điện, than, nước, xăng dầu... đã tạo ra sức ép không nhỏ cho doanh nghiệp.

Có thể thấy, áp lực lạm phát đang trở thành một thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh phụ thuộc vào xuất nhập khẩu. Mặc dù Chính phủ đã rất quan tâm đến yêu cầu kiềm chế lạm phát và có nhiều văn bản hướng dẫn, nhắc nhở các bộ, các tỉnh, thành phố, song lạm phát vẫn có nguy cơ quay trở lại. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mong muốn trong khuôn khổ Diễn đàn hôm nay, các chuyên gia kinh tế, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ cùng ngồi lại với nhau để thảo luận, mổ xẻ các vấn đề về khả năng, mức độ của lạm phát cũng như nhận diện, phân tích rõ ràng những thách thức, cơ hội đầu tư và các yếu tố khác tác động đến hoạt động sản xuất - kinh doanh.
 
Tôi hy vọng qua Diễn đàn này, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ có cơ hội được nắm bắt thông tin một cách đầy đủ, cụ thể và đa chiều nhất, cũng như đưa ra những dự báo về các kịch bản tăng trưởng kinh tế trong 9 tháng cuối năm 2010 để từ đó doanh nghiệp có thể đánh giá lại các kế hoạch kinh doanh, cũng như chủ động vượt qua thách thức và nắm bắt thời cơ phát triển mới". 
 

Sau bài phát biểu của ông Túc là bài tham luận của TS Võ Trí Thành

 TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
 
Ông Thành cho biết: Có thể nói vào cuối 2009 đến đầu 2010, kinh tế thế giới phục hồi và bất định. Bất định hàm nghĩa rủi ro. Đầu năm 2001, IMF nói rằng tăng trưởng thế giới khoảng 4,1%, hồi phục có vẻ chưa chắc chắn. Một loạt sự đổ vỡ ở Dubai vào cuối năm ngoái. 200 ngân hàng sụp đổ. Hệ thống tài chính vẫn được nhận định còn tiềm ẩn rủi ro.
 
Năm 2010, nền kinh tế thế giới khả năng hồi phục khả quan hơn. Thế nhưng, một vấn đề đặt ra trên cả toàn thế giới là tỷ lệ thất nghiệp cao và tỷ lệ này ngày càng tăng lên và rất khó có thể giảm. Hiện, người Nhật vẫn tiếp tục kích thích kinh tế, thậm chí phải mất 10 năm mới giảm được giảm phát. Do đó, bài toán chống lạm phát rất là khó khăn và một bài toán đặt ra là loay hoay giải bài toán lạm phát. Ông Thành cũng đưa ra ví dụ về vấn đề giảm lạm phát từ Trung Quốc.
 
Về Việt Nam, các nhìn nhận về kinh tế vĩ mô từ ba bốn tháng trở lại đây có nhiều thay đổi. Dự báo về kinh tế Việt Nam không quá chênh lệch. Nếu nhìn vào tăng trưởng thì đều dự báo là 6.5 và đa số thận trọng là 5.5 – 6%.

Về lạm phát, cuối năm ngoái, Chính phủ thông qua mục tiêu dự báo 6,5%. Các luồng vốn vào VN tốt hơn, điều phối năm nay dự báo có thể tốt hơn, như vậy, thâm hụt vãng lai giảm so với dự báo, không đến nỗi trắc trở so với cách đây 3 – 4 tháng.

Về chính sách, có mấy vấn đề đặt ra:
 

Theo ông Thành, áp lực chính sách tiền tệ là áp lực ổn định từ kinh tế vĩ mô. Nếu so từ năm 2007 đến 2009 thì bản chất chính của nền kinh tế vẫn là lãi suất. Trong khi đó, áp lực về phía doanh nghiệp so với thời kỳ năm 2008 đã đỡ hơn rất nhiều nhờ những tháo gỡ về chính sách nguồn vốn cho doanh nghiệp và thậm chí cả cách cung cấp thông tin cũng như có nhiều trấn an với các doanh nghiệp. Đặc biệt là Đảng, Chính phủ đã có những chính sách linh hoạt trong cách điều hành.
 
Trong điều hành chính sách tiền tệ thì có một khó khăn, đó là cân bằng lãi suất giữa nội tệ và ngoại tệ để làm sao người dân tin vào đồng nội tệ. Chúng ta phải rất thận trọng về câu chuyện sai lệch cơ cấu đồng tiền trong thời gian tới, nếu không giám sát tốt giữa đồng đô la và tiền mặt thì trong quí‎ 3, 4, thị trường ngoại hối sẽ rất căng thẳng.
 
Vậy làm thế nào? Giảm được lạm phát xuống thấp trong thời gian ngắn là rất khó. Điều này gắn với việc phải tính rõ ràng trong mục tiêu, và phải hài hòa giữa tăng trưởng và lạm phát. Chính vì thế, đây là bài toán khó.
 
Cái khó thứ hai thể hiện đó là tính minh bạch trong nguồn vốn và chính sách. Thứ ba là trong vấn đề phối hợp chính sách vì không thể chỉ điều chỉnh một mình chính sách lãi suất, hay là tỷ giá…Cuối cùng là vấn đề can thiệp vĩ mô. Nếu chúng ta giải quyết được những khó khăn trên thì sẽ giải quyết được vấn đề lạm phát.
 

TS Vũ Đình Ánh - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính) 
Nói về áp lực lạm phát, TS Vũ Đình Ánh cho biết: Đừng để lạm phát bùng nổ bởi đấy là kỳ vọng lớn nhất của toàn xã hội. Lý giải về nguyên nhân xảy ra lạm phát, đứng dưới góc độ nghiên cứu khoa học, TS Vũ Đình Ánh khẳng định: Lạm phát ở VN là chuyện quá bình thường, chính cách thức tăng trưởng của chúng ta là mầm mống gây nên lạm phát. Lạm phát luôn song hành với tăng trưởng.
 
Ông Ánh phân tích: "Cuối năm 2008, lạm phát tăng khoảng 19,83%, năm 2007 là 12,62%. Năm 2008, tăng trưởng tín dụng tăng mạnh trong khi chiến lược phát triển ngân hàng đặt ra là tăng 25%. Tín dụng tăng mạnh như vậy trở thành một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát. Cuối năm 2008, chúng ta đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7%. Lạm phát 15%. Sang đến những tháng đầu năm 2009, câu chuyện khủng hoảng đã quá rõ ràng."  
 
Ông Ánh cho biết, việc dự đoán về mức độ lạm phát trong năm nay là rất khó. Lạm phát ở con số bao nhiêu thì chưa đủ các yếu tố để dự báo. Ngay cả khi có chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 được đưa ra thì cũng không thể đưa ra được dự báo về lãi suất. Bên cạnh đó, liên quan tới vấn đề lạm phát còn là vấn đề về đồng bộ chính sách tài khóa và tiền tệ. Sự phối hợp giữa hai chính sách này rất quan trọng.
 
TS Vũ Đình Ánh cho rằng: "Lãi suất cơ bản do ngân hàng quyết định, nhưng cho đến thời điểm này tại sao chúng ta cứ phải điều chỉnh nó. Cái mà chúng ta quan tâm là lãi suất cho vay mà lãi suất cho vay phải để cho các DN trụ nổi, sống nổi. Đỉnh cao năm 2008, chúng ta đẩy lãi suất cơ bản lên 14%, lãi suất doanh nghiệp vay là 21%, nhưng lãi suất thực tế lại là 23%. Nếu như 14% của 2008 là để chúng ta chống lạm phát thì đến hết quý 1/2010, chúng ta lại đẩy lãi suất lên cao tạo ra lạm phát. "
 
Về câu chuyện thanh khoản hệ thống ngân hàng, TS Ánh nói: "Tôi đọc trên báo, 1 tháng trước người ta tuyên bố bơm thừa vào hệ thống 15.000 tỷ đồng, 1 tháng sau người ta lại nói bơm vào hệ thống 30.000 tỷ đồng. Năm 2009 tốc độ tăng tín dụng 37,7%, tốc độ tăng huy động 27,7%. Như vậy huy động chắc chắn không đủ bù cho tín dụng. Theo cảm nhận của tôi với hệ thống ngân hàng là thanh khoản không có vấn đề nhưng đang phân hóa, trong đó có rất nhiều định chế tài chính đang có vấn đề."
 
TS. Nguyễn Minh Tuấn - Phó Viện trưởng, Viện Phát triển Doanh nghiệp (VCCI) cũng tham gia với Diễn đàn bằng tham luận “Ổn định kinh tế gắn với phát triển thị trường nội địa”.
 
Ông Tuấn cho biết: Năm 2010 đánh dấu sự phục hồi của kinh tế thế giới, sự phục hồi này thể hiện qua tăng trưởng kinh tế tại hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Tuy nhiên, sự phục hồi này là không đồng đều tại các khu vực khác nhau. Trạng thái mang tính thăng bằng nói trên đòi hỏi phải có xử lý linh hoạt và mềm dẻo và đặc biệt phải bám sát các diễn biến về giá cả, tiền tệ và kinh tế trên thế giới và trong nước. Trong ba nhóm lạm phát cơ bản, là lạm phát tiền tệ, lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo thì chúng ta có thể thấy lạm phát tiền tệ sẽ đóng vai trò chi phối trong thời gian tới.
 
Theo ông Tuấn, về các chỉ số và phương án cho năm 2010, chúng ta đưa ra hai phương án như sau:
Phương án 1: Là phương án chú trọng nhiều hơn đến chất lượng tăng trưởng. Trong đòi hỏi đó chứa hàm ý về một mục tiêu tăng trưởng vừa phải hơn, để tập trung chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lại sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ... Trong phương án này, dự báo tăng trưởng kinh tế khoảng 6-6,5%, tăng trưởng trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 3,0-3,2%; công nghiệp và xây dựng 6,4-6,8%; dịch vụ 7,1-7,9%.

TS. Nguyễn Minh Tuấn - Phó Viện trưởng, Viện Phát triển Doanh nghiệp (VCCI) phát biểu tại diễn đàn

 
Phương án 2: Là phương án theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, khoảng 7%. Tốc độ tăng trưởng khu vực nông, lâm và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ tương ứng là 3,2-3,4%; 6,8-7,4% và 7,9-8,5%.
 
Ông Tuấn cho rằng, phát triển kinh tế nói chung và phát triển thị trường nội địa nói riêng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia. Thị trường nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết và bình ổn nền kinh tế, hạn chế sự phụ thuộc vào xuất khẩu, tạo bước đệm cho các ngành hàng “non trẻ” trong bước đầu gia nhập thị trường trước khi mở rộng hoạt động tại các thị trường quốc tế.
 
Nếu ai đã từng thăm Hàn Quốc - xứ sở của sản phẩm nổi tiếng kim-chi và tới thăm các trung tâm thương mại, cửa hàng, chợ thì hầu như đều có cảm giác chung là thị trường Hàn Quốc bị chi phối mạnh bởi các sản phẩm Hàn Quốc. Các thương hiệu lớn quốc tế chủ yếu xuất hiện tại một số trung tâm thương mại lớn. “Người Hàn Quốc dùng hàng Hàn Quốc” đã trở thành một khái niệm rất quen thuộc trong mua bán tại xứ Hàn. Ở đây chúng ta cũng phải nhận thấy vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền được thể hiện thông qua việc khích lệ lòng tự hào dân tộc.
Trên thực tế người Hàn Quốc rất tự hào về các sản phẩm do chính họ làm ra. Một người bán hàng ở Seoul sau khi giới thiệu một sản phẩm và các tính năng sản phẩm đó của cho tôi, để thuyết phục người mua ông ta cuối cùng đã chốt bằng một câu ngắn gọn-đây là sản phẩm “Made in Korea”. Như vậy xét ở một chừng mực nhất định thì các sản phẩm được sản xuất tại Hàn Quốc đã tạo được uy tín đối với khách hàng về chất lượng, kiểu dáng thời trang và mức giá phù hợp.
 
Với dân số 86 triệu người và đặc thù dân số trẻ trong đó trên 50% là dưới 30 tuổi và tỷ lệ những người trong độ tuổi tạo ra thu nhập-có mức chi tiêu nhiều nhất (22-55 tuổi) chiếm 70%, Việt Nam được biết tới là một trong những quốc gia hấp dẫn nhất thế giới xét về chỉ số phát triển bán lẻ. Cũng cần phải nói rằng đây là một chỉ số tổng hợp trong đó mức độ bão hòa của thị trường được tính tới với trọng số là 30%. Các chỉ số khác là rủi ro quốc gia, độ hấp dẫn thị trường và áp lực thời gian có các trọng số tương ứng là 25%, 25% và 20%. 

Là một thị trường mới nổi có mức tăng trưởng nhanh và cơ cấu dân số thuận lợi như đã nói trên nên thị trường bán lẻ Việt Nam trở nên hấp dẫn trong con mắt của các nhà đầu tư và bán lẻ nước ngoài. Chúng ta cũng phải nhấn mạnh rằng tập quán tiêu dùng và hành vi mua sắm của người dân đã được thay đổi đáng kể trong ít năm trở lại đây. Doanh số bán lẻ đã tăng trung bình ở mức 20%/năm trong thời gian gần đây và doanh số bán lẻ năm 2008 đạt mức 54 tỷ USD.
 
Ông Tuấn cũng đưa ra những ý kiến và giải pháp cụ thể cho việc phát triển và chiếm lĩnh thị trường nội địa nhằm phát triển kinh tế nước ta.
 
1.Thứ nhất, đó là việc cải tiến mẫu mã hàng hóa. Đây là yếu tố quan trọng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể đứng vững trên thị trường nội địa và vươn ra thị trường quốc tế. Từ trước đến nay, phần lớn hàng hóa sản xuất trong nước được biết đến với mẫu mã tương đối khiêm tốn. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc xây dựng thương hiệu mang tầm quốc gia và vươn tới khu vực, quốc tế.
 
Chúng ta cũng cần nhận thấy rằng đây là quy trình có giá trị gia tăng rất cao. Hầu hết các tập đoàn lớn trên thế giới đã cho di dời các cơ sở sản xuât ra khỏi quốc gia của mình nhưng các trung tâm thiết kế mẫu mã hàng hóa thường vẫn được đặt tại chính quốc. Trong tương lai gần, chúng ta cần có những sách lược cụ thể và cùng với công tác tuyên truyền trong dân chúng và cộng đồng doanh nghiệp để nâng tầm nhận thức về nội dung quan trọng này.
 
2. Thứ hai, chúng ta phải kể đến chất lượng và tính ổn định của chất lượng hàng hóa. Một số doanh nghiệp hiện nay đã có chiến lược cụ thể nhắm tới các phân khúc trung và cao cấp. Tuy nhiên do quy trình sản xuất và hệ thống quản lý chưa đồng bộ nên đã để xảy ra lỗi sản phẩm với xác suất cao.

 

 3.Thứ ba, chúng ta phải kể đến yếu tố giá. Hiện nay có một thực tế là một số sản phẩm nội địa được tiêu thụ tốt đã được định giá cao trên mức người tiêu dùng có thể chấp nhận được. Chính vì lẽ đó, nên một số sản phẩm sau khi tạo được tiếng vang trong thị trường đã bị thu hẹp thị phần và chìm vào quên lãng. Bên cạnh đó phải kể đến yếu tố đa dạng hóa chủng loại sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn chưa có chiến lược phát triển sản phẩm cụ thể đối với các vùng ngoại thành, nông thôn, vùng sâu vùng xa. Một điểm cần lưu ý rằng, các tập đoàn đa quốc gia đã có những chiến lược rất mạnh mẽ để phát triển các sản phẩm phục vụ cho các đối tượng thu nhập thấp, vùng xa.
 
4. Thứ tư, chúng ta phải kể đến việc xây dựng liên kết giữa mạng lưới phân phối bán lẻ và các nhà sản xuất hàng hóa nội địa. Giải pháp cho vấn đề này đòi hỏi phải có sự tiếp cận từ công tác tuyên truyền trong xã hội, xúc tiến phát triển liên kết – chắp mối kinh doanh. Trong nhiệm vụ này, chúng ta phải kể đến tầm quan trọng của hạ tầng phân phối-bán lẻ trong nước mà cụ thể hơn là hạ tầng về giao thông, kho bãi và hậu cần.

5. Thứ năm, chúng ta phải kể đến hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của chuỗi cung ứng hàng hóa. Đối với hàng nông sản, chúng ta cần đặc biệt lưu ý tới việc gây dựng và thúc đẩy phát triển các hình thức tổ chức của nông dân. Sau một giai đoạn phát triển, các hình thức này có thể được chuyển thành các doanh nghiệp nhỏ tại nông thôn và tạo đà cho liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Vấn đề quảng bá và giới thiệu sản phẩm có chất lượng tốt, mang tính điển hình và tiêu biểu của nông dân cần được đẩy mạnh. Xây dựng thương hiệu về nông sản và chỉ dẫn địa lý cần được tiến hành một cách thường xuyên.
 
6.Thứ sáu, chiếm lĩnh và phát triển thị trường nội địa cần được xem xét trên quy mô vùng địa lý, theo mỗi ngành hàng và đối với mỗi doanh nghiệp. Trong tương lai, cần hướng tới khái niệm “hàng Việt Nam-chất lượng quốc tế”
 
7. Cuối cùng là việc tiếp tục nâng cao vai trò của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp. Chúng ta cần có các chương trình dài hạn được triển khai thông qua các tổ chức nói trên nhằm giúp tăng cường hợp tác và liên kết theo ngành, theo vùng và theo lĩnh vực.
 
ThS.Võ Văn Minh – Trưởng phòng phân tích công ty CP chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội với tham luận: “Chính sách tiền tệ và Mục tiêu kiềm chế lạm phát".
 
Theo ông Minh, vai trò kiểm soát lạm phát của chính sách tiền tệ bị ảnh hưởng bởi cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ suy yếu, lạm phát tâm lý ở Việt Nam khá lớn, mục tiêu chính sách tiền tệ chưa rõ ràng, tính độc lập của NHTW (NHNN) chưa cao.
 
Về cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ (TMT), đây là cơ chế truyền tải ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Hiệu quả của chính sách điều tiết tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào sự vận hành của cơ chế này.
 
Sơ đồ cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ
 
Tuy nhiên hiện nay xuất hiện một số vấn đề liên quan đến cơ chế này tại ít nhất 3 kênh truyền tải: kênh lãi suất (Interest Rate channel), kênh tỷ giá (Exchange Rate channel), kênh tín dụng (Credit channel). Ông Minh cho biết, kênh lãi suất hiện đang gặp các vấn đề đó là sự có mặt đồng thời của cơ chế lãi suất thỏa thuận và lãi suất cơ bản khiến thị trường gặp khó trong việc “đọc” định hướng của NHNN; vai trò của lãi suất cơ bản đang mờ nhạt do nó không tương thích với lãi suất thị trường. Thay đổi chính sách lãi suất không có tác động lớn đến tăng trưởng và kiềm chế giá.
 
Nhìn trên kênh tỷ giá, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế khá cao với khoảng hơn 20 tỷ USD và 500 tấn vàng đang được găm giữ trong dân (Theo TS. Võ Trí Thành) - con số được ghi vào sai số trong cân đối cán cân thanh toán (BOP) năm 2009 là 9,7 tỷ USD. Chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và thị trường trong một số thời điểm là khá cao. “Cả hai yếu tố trên khiến việc tính toán cân đối BOP và cân đối tỷ giá khó khăn hơn, và gián tiếp tạo ra lạm phát nhập khẩu trong từng thời điểm” – ông Minh khẳng định. Theo thông báo của Quốc hội, hiện chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận tín dụng ngân hàng (theo TS. Vũ Viết Ngoạn), 70% số doanh nghiệp chưa tiếp cận các kênh tín dụng phi chính thức hoặc không sử dụng đòn bẩy tài chính. Hệ quả của tình trạng này chính là vai trò của hệ thống ngân hàng trong điều tiết kinh tế bị ảnh hưởng mạnh.
 
 ThS.Võ Văn Minh – Trưởng phòng phân tích công ty CP chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội
Trên thế giới, lạm phát luôn có yếu tố tiền tệ, song ở Việt Nam yếu tố lạm phát tâm lý – lạm phát phi tiền tệ - lại khá mạnh. Giá cả tăng lên không xuất phát từ yếu tố chi phí mà chủ yếu từ tâm lý “ăn theo” giá các hàng khóa khác. Các chính sách tiền tệ khó có thể điều tiết kiểu lạm phát phi tiền tệ này. Ông Minh cho rằng, mục tiêu chính sách tiền tệ chưa rõ ràng. Quốc hội và Chính phủ đặt ra đồng thời chỉ tiêu lạm phát và tăng trưởng GDP hàng năm.
 
Trên thực tế, nhiều khi các chỉ tiêu này rất khó đạt được cùng một lúc. Ví dụ: mục tiêu năm nay là 7% và 6.5%. Thị trường sẽ ngầm hiểu là Quốc hội và Chính phủ sẽ phải hi sinh một trong hai chỉ tiêu để đạt được chỉ tiêu còn lại. Tuy nhiên, do kênh truyền đạt không tốt nên thị trường gặp khó trong việc dự đoán mục tiêu từng thời kỳ của các cơ quan chức năng. Tính định hướng của chính sách tiền tệ không mạnh do yếu tố đa mục tiêu. Các chính sách để kiềm chế lạm phát do đó cũng yếu hơn.
 
Tính độc lập Ngân hàng Trung ương còn chưa cao. Sự độc lập tương đối của NHNN sẽ cho phép ngân hàng này chủ động điều tiết thị trường trong từng thời kỳ mà không cần phải chờ đợi sự cho phép của Chính phủ trong những chính sách của mình; hoặc lựa chọn mục tiêu của mình nếu họ thấy rằng cần thiết và dẫn dắt thị trường đi theo. Do chưa đạt được tính dẫn dắt thị trường nên người ta thường nhìn vào quan điểm của Chính phủ và của Quốc hội về lạm phát và tăng trưởng để điều tiết hành vi của mình hơn là nhìn vào NHNN. 
 
Từ đó, SHS đưa ra một số đề xuất:
- Tăng cường hiệu quả của cơ chế truyền tải tiền tệ thông qua: tăng tỷ lệ tiếp cận tín dụng, nhất thể hóa thị trường lãi suất, tăng cường các biện pháp kết hối ngoại tệ & vàng nhằm giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
 
- Tăng cường việc kiểm soát giá cả nhằm ngăn ngừa tình trạng tăng giá “tát nước theo mưa” để trục lợi theo xu hướng của thị trường.
 
- Xác định rõ ràng các mục tiêu chính sách trong từng thời kỳ. Xây dựng một kênh thông tin chính thống và cập nhật từ NHNN tới thị trường.
 
- Trước mắt cho phép NHNN độc lập trong việc lựa chọn công cụ chính sách trong từng thời kỳ- Trong bối cảnh hiện nay, chưa cần thiết cho phép NHNN đạt được mức độc lập cao, độc lập về xác định mục tiêu. Mục tiêu nên thống nhất để Quốc hội ban hành.
 
Bà Dương Thu Hương – Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng 
TS Dương Thu Hương – Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng chia sẻ: "Theo tôi, lạm phát năm nay sẽ cao nhưng sẽ dưới 10%. Mức lãi suất trần đang là vấn đề về chính sách tiền tệ. Tôi cho rằng, người gửi tiền, người vay tiền, và ngân hàng phải tìm ra một điểm để hài hòa lợi ích của các bên, có như vậy mới làm giảm áp lực tâm lý các bên tham gia. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, các ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay. Cả hệ thống ngân hàng cũng đang quyết tâm kéo lãi suất cho vay giảm xuống để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp. Tôi cũng mong rằng, các ngân hàng và doanh nghiệp nên thông cảm cho nhau, tìm ra được những điểm hài hòa để tạo điều kiện cho nhau, cùng nhau tháo gỡ khó khăn và cùng phát triển. Chúng ta cũng nên nhìn vấn đề ở hai mặt để có thể tìm ra được hướng đi tốt nhất giải quyết những vấn đề còn tồn tại, tôi cũng mong muốn rằng doanh nghiệp chia sẻ những khó khăn với hệ thống các ngân hàng. Theo tôi, lộ trình lãi suất trong thời gian tới sẽ giảm xuống, tất nhiên còn phụ thuộc vào tình trang lạm phát, nhưng theo tôi lạm phát sẽ chỉ dừng lại ở mức 7%".

Bà Hương dẫn chứng: "Việc phát triển kinh tế là cơ sở cho việc phát triển hệ thống ngành ngân hàng. Còn về phía ngân hàng, luôn mong muốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, đồng hành cùng doanh nghiệp. Có lẽ, phải ghi nhận rằng trong năm 2009, ngành ngân hàng đã có sự đóng góp của tín dụng ngân hàng là đáng kể chứ không phải là ngân hàng làm tăng lạm phát. Trong quý I, lạm phát là 4,2%. Chính phủ có chủ trương giảm lãi suất tái chiết khấu để giảm lãi suất cho vay, việc làm này không hề nới lỏng chính sách tiền tệ mà đang thắt chặt chính sách tiền tệ vì ngân hàng đang có dư địa để làm điều đó. Chúng tôi cũng đang đồng hành và tìm nhiều cách để trong thời gian tới có thể giảm được lãi suất cho vay".
 
Bà Hương cũng bày tỏ: Nhiều người băn khoăn sao lợi nhuận của ngân hàng lại cao thế, nhưng kỳ thực, nếu so sánh với tổng tài sản của ngân hàng thì lợi nhuận đó không phải là cao, còn nếu so sánh với doanh nghiệp nhỏ hơn, vốn thấp hơn thì tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng còn thấp hơn nữa. Hiện, chỉ có vài ngân hàng là có vốn nhỏ, còn hầu hết các ngân hàng đều có tổng tài sản rất cao, thậm chí có ngân hàng tới hơn hai trăm ngàn tỷ, nếu mà chia ra thì tỷ suất lợi nhuận kkhông cao.
 
 Ông Nguyễn Đại Lai - Chuyên gia tài chính

Nối tiếp chương trình, TS Nguyễn Đại Lai đã có bài tham luận về “Thách thức lạm phát và đề xuất cơ chế điều hành chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá trên thị trường tài chính nước ta giai đoạn sau quý I/2010”.

 
Theo TS Lai, sau quý I/2010, xu hướng khả quan được thể hiện là: GDP tăng 5,83% so cùng kỳ 2009 (quý I/2009 so 2008 chỉ có 3,1%, quý 2/2009 so với năm 2008 là 4,42% ), thị trường ngoại hối và lãi suất vẫn cơ bản ổn định, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có USD đã bán cho NHTM theo cam kết, nguồn cung USD khá dồi dào do tốc độ giải ngân các dự án FDI, ODA tăng khá. Riêng FDI giải ngân được 2,5 tỷ USD, tăng 13,6% so với 2,15 tỷ USD tại quí I/2009. Nhiều chính sách mới đã được ban hành như: giới hạn mục tiêu tăng trưởng GDP theo kịch bản thận trọng ở mức 6,5% , kìm giữ tốc độ tăng tín dụng không quá 25%/năm, kìm giữ lạm phát ở mức dưới 7%, điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, tăng cường kiểm soát đô la hóa…
 
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những dấu hiệu bất ổn, thể hiện: lạm phát khó kìm giữ được dưới 10% (biểu hiện: CPI quý 1 lần lượt là: tháng 1: 1,36%, tháng 2: 1,96%, tháng 3: 0,75%, 3 tháng: 4,12% và 9,46% so với cùng kỳ 2009);  tăng giá nhiều mặt hàng độc quyền của Nhà nước: xăng, dầu, điện, vận tải, vật  liệu xây dựng…; các nhân tố về vốn: năm 2009, tốc độ tăng tín dụng lớn hơn tốc độ tăng GDP, lượng đầu tư rất lớn từ các “gói” kích thích kinh tế năm 2009…dẫn đến hệ số ICOR lên trên 8 đồng đầu tư cho một đồng tăng trưởng, trong đó, trên 7 đồng tín dụng/đồng GDP; tốc độ tín dụng quý 1/2010 chỉ có 3,34% so với 8,4% quý 1/2009, vì lãi suất quá cao (trong đó tín dụng VND chỉ tăng khoảng 1%). ”Chính vì thế, cần nhận diện, chủ động và có đối sách kịp thời để tránh tình trạng tái bùng phát của CPI” – TS Lai nhận định.
 
Bài  toán đặt ra và đề xuất đổi mới cơ chế lãi suất, tỷ giá đó là NHNN nên thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới theo một lộ trình thích hợp và tích cực. Cụ thể: Đối với thị trường tín dụng đầu ra: mở thêm nút thắt lãi suất cho cả thị trường cho vay ngắn hạn, tiến tới thỏa thuận hóa hoàn toàn lãi suất đầu ra; đề xuất Chính phủ cho dỡ bỏ cơ chế khống chế lãi suất tín dụng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản, xóa hoặc định nghĩa lại lãi suất cơ bản và ghi vào Luật mới đang sửa. Có như vậy, sẽ hạn chế được tối đa các hành vi lách chính sách; giúp hài hòa lợi ích cả người vay lẫn ngân hàng; các ngân hàng cũng sẽ không dám liên kết đẩy lãi suất cho vay lên quá cao vì sẽ mất khách hàng và cạnh tranh lành mạnh bao giờ cũng đẩy lãi suất xuống, lợi cho người vay; thị trường sẽ tạo ra một đường cong lãi suất  thích hợp theo cơ chế lan tỏa của nghiệp vụ NHTW…

 

Đối với lãi suất huy động ở đầu vào: NHNN cần thay đổi cách điều hành theo hướng cứng hơn so với thị trường tín dụng ở đầu ra bằng cơ chế trần mềm, đó là: Phải khống chế lãi suất huy động không được phép vượt qua một giới hạn hay một tỷ lệ nào đó so với lãi suất tái cấp vốn của NHTW hoặc lãi suất bình quân liên ngân hàng theo tín hiệu thị trường; sẵn sàng bơm thanh khoản ngay với một tỷ trọng đủ để vượt qua khó khăn và với lãi suất tương đương với trần lãi suất huy động mà NHNN công bố đang có hiệu lực tại thời điểm đó; NHNN cũng cần ban hành chính sách buộc mọi NHTM đều phải trích một tỷ lệ trên vốn huy động đủ an toàn để đầu tư vào chứng khoán nợ dài hạn của Chính phủ, hoặc chứng khoán nợ dài hạn do Chính phủ bảo lãnh và lưu ký tại NHNN làm hàng hóa tham gia điều hòa thanh khoản trên OMO…
 
Có 2 vấn đề trái chiều, khá hóc búa cần phải nhận diện và có giải pháp ứng phó: thứ nhất, năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn còn rất yếu (cả do cơ cấu kinh tế bất hợp lý lẫn thiếu thị trường đầu ra của hàng hóa, dịch vụ và lãi suất trên thị trường khá cao). Thứ 2, lạm phát tuy chưa bùng phát nhưng đã có tín hiệu bằng nhiều áp lực theo hướng đẩy lạm phát lên mức cao. Lãi suất huy động lại vừa phải đóng vai trò chống lạm phát, vừa phải đáp ứng kỳ vọng lãi suất thực dương… "Vì vậy, các NHTM cần giảm lãi suất đầu ra mạnh hơn tốc độ giảm lãi suất đầu vào; NHNN phải được quyền chủ động bơm thanh khoản thời hạn ngắn cho các NHTM thực sự khó khăn; trước mắt phải giảm lãi suất đầu ra, để phát tín hiệu sẽ giảm dần lãi suất đầu vào theo tín hiệu thị trường…” – TS nhận định. 
 
Đối với điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối, TS Nguyễn Đại Lai cũng đề xuất một số ý kiến: NHNN cần lập chương trình với lộ trình tích cực nhất, đề xuất Chính phủ cho phối hợp cùng các bên liên quan từng bước triệt để chống đô la hoá và cả chống “vàng hóa”. Chính Phủ cần chỉ đạo các Bộ chức năng giám sát và dùng cơ chế cưỡng chế chặt chẽ để kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ trái phép trên thị trường - Trong lãnh thổ chỉ tiêu tiền nội tệ. Đề xuất và trình lên Chính phủ phê duyệt quy chế quản lý các hoạt động kinh doanh vàng miếng, vàng thanh toán trong lãnh thổ, cùng với cơ chế quản lý ngoại hối và điều hành thị trường ngoại tệ phải do NHNN thống nhất đảm nhiệm. 
 
 Ông Đặng Minh Hải - PGĐ NHTMCP An Bình,Chi nhánh Hà Nội
Ông Đặng Minh Hải - PGĐ NHTMCP An Bình, Chi nhánh Hà Nội chia sẻ tại Diễn đàn về “Thực trạng và giải pháp giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng”.
 
Qua tìm hiểu và đánh giá của ABBank về tình hình hỗ trỡ doanh nghiệp vay vốn trong thời gian qua tại các ngân hàng và tại ABBank, ông Hải đã chỉ ra những hạn chế khiến các DN khó tiếp cận nguồn vốn vay là do: kỹ thuật và công nghệ lạc hậu; chưa minh bạch về tài chính; hạn chế về nhân lực và quản lý; thiếu tài sản bảo đảm; khả năng tiếp cận thông tin và thị trường hạn chế; vốn tự có thấp, sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào vốn vay; một số DN xuất phát điểm từ kinh nghiệm kinh doanh thực tế của chủ DN nên có phần hạn chế, không định lượng được rủi ro của hoạt động kinh doanh.
 
Trước những đánh giá đó, ABBank cũng đưa ra một số giải pháp triển khai giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng theo ABBank là: Về phía DN: tự thân mỗi DN phải nỗ lực để nâng cao năng lực. Đặc biệt DN phải minh bạch về tài chính, không có nợ xấu, nợ quá hạn. DN phải thuyết phục ngân hàng về hiệu quả kinh doanh một cách rõ ràng của dự án đầu tư.
 
Về phía ABBank sẽ thiết kế quy trình, thủ tục vay vốn ngắn gọn nhằm rút ngắn thời gian thẩm định hồ sơ vay và giúp DN nhanh chóng được vay vốn; tổ chức được đội ngũ chuyên viên quan hệ khách hàng gặp gỡ trực tiếp, tư vấn tài chính và cung cấp thông tin về các chương trình ưu đãi; đối với những DN có phương án kinh doanh hiệu quả, kết quả hoạt động tốt, quan hệ uy tín với ABBANK cũng như các NH TMCP khác, áp dụng những chính sách ưu đãi như: giảm lãi suất, ưu đãi về tỷ giá và phí, nới lỏng các điều kiện cho vay về tài sản bảo đảm… Theo hướng dẫn của Thông tư 12 – NHNN ban hành ngày 14/4/2010, ABBANK cũng đã xác lập một mặt bằng lãi suất cho vay thoả thuận VND mới ở mức 13,5-14,5%/năm tùy vào đối tượng khách hàng. Lãi suất cho vay USD từ 6%-7%/năm; thực hiện các chương trình khuyến mãi hỗ trợ DN khi tham gia vay vốn tại ABBANK. ABBANK không chỉ dựa trên tài sản thế chấp khi cho vay, ABBANK còn mở rộng hạn mức cho vay tín chấp khi DN thể hiện tốt hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, ABBANK đang thực hiện chương trình lớn về việc hợp tác, cho vay ưu đãi lãi suất và giảm phí thanh toán trong các giao dịch cho các DN thuộc Top VNR 500. 
 
Trước ý kiến của Ngân hàng ABBank, TS Dương Thu Hương cũng chia sẻ: các DN nên lựa chọn cho mình một ngân hàng nào đó mà cơ chế phù hợp với DN, trở thành người bạn gắn bó với ngân hàng đó thì lãi suất sẽ thấp. Còn nếu đối với DN đi vay ở nhiều ngân hàng thì chắc chắn phải chịu với lãi suất cao. Vì thế, một thông điệp bà Hương muốn gửi tới các DN là: Hãy lựa chọn một ngân hàng để phục vụ cho DN của mình.
 
Sau một loạt các tham luận tại diễn đàn, các đại biểu tiếp tục tham gia phần thảo luận. Ông Nguyễn Ngọc Khôi - Chủ tịch KaT Group – Vườn sinh thái Đầm Bông cho biết: Hiện nền kinh tế thế giới đã nóng lên rồi mà chính sách tiền tệ của mình vẫn …dậm chân tại chỗ. Một số DN hiện nay có gửi hàng trăm tỷ trong ngân hàng. Tuy nhiên, để một số DN khác được vay vốn thì ngân hàng cần phải xem xét lại các thủ tục.

 Thạc sỹ Lê Văn Hinh trao đổi tại diễn đàn

 
Thạc sỹ Lê Văn Hinh cho biết, thời gian dài, lãi suất huy động và lãi suất cho vay ở các NHTM Việt Nam đã tăng lên rất cao. Với mặt bằng lãi suất cho vay cao như vậy, doanh nghiệp sản xuất sẽ không chịu đựng nổi và buộc phải cắt giảm đầu tư sản xuất… Trước tình hình này, Chính phủ đã chủ trương chỉ đạo giảm mặt bằng lãi suất ngân hàng xuống mức thấp hơn và tập trung vốn cho khu vực sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra liệu lãi suất ngân hàng có thể giảm được đến đâu và cơ sở để giảm lãi suất một cách bền vững và các nhà phải làm gì để giảm lãi suất.
 
Thạc sỹ Lê Văn Hinh nhấn mạnh: "Một điều đáng quan ngại hiện nay là, khi lãi suất cao, người ta cứ đổ lỗi tại NHNN hoặc tại NHTM. Nhưng những phân tích cho thấy, nguyên nhân lãi suất cao không chỉ là lỗi của NHNN hay đơn thuần là do NHTM. Để giảm lãi suất thì mọi “nhà” (nhà nước, nhà băng, nhà doanh nhiệp…) cùng phải vào cuộc. Các nhà khoa học cũng phải đồng thuận như vậy”.
Do vậy, Nhà nước có trách nhiệm điều hành kinh tế vĩ mô ổn định, chi tiêu hợp lý ngân sách Nhà nước, cẩn trọng với bất kỳ khoản vay chính phủ nào (chứ không nên vay bằng mọi giá với bất kỳ lãi suất nào, để cho con cháu phải trả nợ). NHTM cần thay đổi cách ứng xử có trách nhiệm hơn nữa và cam kết hơn nữa với cộng đồng. Cụ thể, khi khó khăn, NHTM trước hết hãy cắt giảm các chi phí sau đó mới nghĩ đến tăng lãi suất (bao gồm cả phí ngân hàng), khi đó lãi suất sẽ trên thị trường sẽ giảm. 
 
Ông Võ Trí Thành nhận xét: Thị trường nội địa là bàn đỡ rất tốt trong những lúc kinh tế khó khăn. Đứng ở góc độ DN, ông Thành cho rằng thị trường VN còn rất nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, VN lại nhập khẩu khá nhiều nguyên liệu, hàng hóa… Nếu người VN ưu tiên dùng hàng VN thì thị trường nội địa sẽ rất phát triển.
 
Về vấn đề lãi suất, ông Thành chia sẻ: Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng vấn đề lãi suất trần, huy động là phải theo thị trường. Do vậy cần phải bỏ lãi suất trần, càng nhanh càng tốt. Nhưng để làm được điều này theo ông Thành phải có 3 điều kiện: (1) Chống lại được rủi ro hành vi đạo đức của một số ngân hàng. (2) Chống lại được sự đổ vỡ của thành quả. (3) Tăng vốn cho ngân hàng và tập trung giám sát.
 
Nói về thị trường chứng khoán, ông Thành cho biết: Trước đây người dân thường gửi tiền vào ngân hàng hoặc mua vàng, đô la. Nhưng khi thị trường chứng khoán “quá hứng khởi”, người dân sẵn sàng đem tiền đổ vào chứng khoán. Điều này cho thấy cần phải có sự phát triển tương xứng đối với các thị trường.
 
Bà Hương chia sẻ thêm: Việc thực hiện lãi suất thỏa thuận là việc làm dũng cảm của ngân hàng nhà nước. Để mỗi người tham gia thị trường (mà cụ thể là ngân hàng và DN) có quyền thỏa thuận thì chúng ta phải giữ thị trường như thế này mới ổn định tối thiểu là cho tới sang năm. Một vấn đề nữa TS Dương Thu Hương nhấn mạnh là vấn đề tỷ giá. Ở Việt Nam vấn đề tỷ giá vẫn theo nguyên tắc điều hành linh hoạt theo tín hiệu thị trường và có mục tiêu rõ ràng nhằm mục tiêu là khuyến khích cho xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Hiện nay, dư nợ ngoại tệ tăng 14%, VND tăng hơn 4%. Lần đầu tiên, sau nhiều tháng, tốc độ huy động nhiều hơn là cho vay.
 
Trong những ngày này, tỷ giá có xu hướng giảm là do, năm ngoái các DN được hỗ trợ lãi suất nên những DN có ngoại tệ vẫn giữ, không vay ngoại tệ nên ngân hàng không cho vay được nhiều ngoại tệ. Nhưng hiện nay, tình hình đã ngược lại, dẫn đến giá ngoại tệ giảm.
 
NHNN dự báo, trong vòng tiếp theo (khi DN quay lại vòng trả nợ), nhu cầu ngoại tệ sẽ cao hơn nên NHNN cũng có những chính sách (có lẽ sắp ra) là khi cho vay ngoại tệ nên cố gắng đáp ứng nhu cầu nhập hàng thiết yếu; còn nhập khẩu hàng xa xỉ phẩm, không thiết yếu thì chưa nên ưu tiên. Đây là những giải pháp của ngân hàng và bộ Công thương trong vòng 6 tháng tới. Những chính sách dự kiến trước sẽ giúp cho thị trường ngoại tệ ổn định hơn trong thời gian tới.
Kết thúc Diễn đàn, ông Phạm Gia Túc cho biết, do thời gian có hạn nên vẫn còn nhiều ý kiến chưa được đưa ra. Các ý kiến này sẽ được ban tổ chức tiếp tục tiếp nhận và xử lý để giúp các DN có thêm thông tin, vận hành DN của mình vượt qua khó khăn. Các ý kiến này cũng sẽ được tập hợp báo cáo lên Chính phủ để đưa ra chính sách phù hợp cho các DN trong thời gian tới.

(Nam Phương - Doãn Hiền - Hồ Hường thực hiện // Theo DĐDN)

Bài thuộc chuyên đề: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam ?

  • IMF dự báo lạm phát Việt Nam vượt 8%
  • UBGSTCQG: Lạm phát và tiền tệ tiếp tục là áp lực trong những tháng cuối năm
  • Cuộc khủng hoảng kinh tế mới sẽ xảy ra vào tháng 9?
  • Cựu Thống đốc kể chuyện giảm lạm phát từ 700% về 5%
  • Lạm phát, đừng nói không đáng lo
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!