Trung Quốc: lạm phát tăng nhanh (Thu Hằng // Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn // Bloomberg)
Nền kinh tế quá nóng khiến Trung Quốc đang phải đối mặt với lạm phát tăng cao trong năm nay, gây tổn hại cho các ngân hàng. Ảnh: Reuters.
Ngân hàng Pháp BNP Paribas nhận định, tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc có thể tăng đến 8% trong năm nay, sẽ gây tổn hại cổ phiếu ngân hàng, ngành dịch vụ và điện thoại.
Tuần trước, Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã bất ngờ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với tiền gửi mà các ngân hàng phải dành riêng vì sự bùng nổ tín dụng đang đe dọa gia tăng lạm phát và tạo ra bong bóng tài sản.
Theo khảo sát của hãng tin Bloomberg chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của nước này tăng khoảng 1,4% trong tháng 12-2009 sau khi tăng 0,6% trong tháng 11. CPI của nước này có thể sẽ tăng 3-3,5% trong cả năm. Dự kiến Tổng cục Thống kê Trung Quốc sẽ chính thức công bố các số liệu hàng tháng vào ngày 21-1.
Theo ông Erwin Sanft, trưởng ban nghiên cứu Trung Quốc và Hồng Kông của BNP Paribas, lạm phát của Trung Quốc có thể sẽ tăng hơn 5% trước giữa năm nay và có thể chạm mức 8% trong nửa còn lại của năm.
Vào ngày 15-1, Ngân hàng trung ương Trung Quốc cho biết dự trữ ngoại tệ của nước này đã tăng 23% lên 2.400 tỉ đô la Mỹ, mức dự trữ lớn nhất thế giới. Cũng theo báo cáo của ngân hàng trung ương, trong tháng 12-2009 các ngân hàng đã mở rộng các khoản cho vay mới lên đến 379.8 tỉ nhân dân tệ (55,6 tỉ đô la Mỹ), nhiều hơn so với ước tính trung bình 310 tỉ nhân dân tệ trong một cuộc khảo sát Bloomberg. Các ngân hàng đã cho vay khoản tiền chưa từng thấy là 9.590 tỉ nhân dân tệ vào năm ngoái.
Chỉ số chứng khoán Thượng Hải (Shanghai Composite) đã giảm 1,6% trong 20 ngày đầu năm nay, sau khi tăng 80% trong năm 2009, làm cho Trung Quốc trở thành thị trường chứng khoán hoạt động kém nhất ở châu Á.
Một cách nhìn khác về nguy cơ lạm phát cao ở Mỹ (Kiều Oanh//Theo Vneconomy // New York Times)
Biếm họa về tình trạng lạm phát tại Mỹ (Internet)
Nhiều người tin rằng, với chính sách tiền tệ nới lỏng và thâm hụt ngân sách khổng lồ như hiện nay, nước Mỹ đang đối mặt với nguy cơ tới một lúc nào đó sẽ phải gánh chịu lạm phát ngoài tầm kiểm soát.
Tuy nhiên, trong một bài phân tích mới đây đăng trên tờ New York Times, giáo sư kinh tế học N. Gregory Mankiw thuộc Đại học Havard, từng là cố vấn kinh tế của cựu Tổng thống George W. Bush, đã đưa ra một cách nhìn mới. Bài viết cho rằng, lạm phát cao có thể xảy ra ở Mỹ trong thời gian tới, nhưng không phải là kết quả trực tiếp từ chính sách tiền tệ và tài khóa hiện nay của nước này.
Giáo sư Mankiw bắt đầu bài viết bằng cách đưa ra những nguyên tắc đầu tiên về lạm phát. Một bài học cơ bản của kinh tế học là giá cả tăng khi chính phủ tạo ra một lượng tiền dư thừa trong nền kinh tế. Nói cách khác, lạm phát xảy ra khi trong nền kinh tế có quá nhiều tiền và quá ít hàng hóa.
Một bài học nữa là chính phủ phải dùng tới biện pháp tăng nhanh cung tiền khi đối mặt với những vấn đề về tài khóa. Khi chính phủ chi tiêu vượt quá tiền thuế thu về, các nhà hoạch định chính sách đôi khi phải gõ cửa ngân hàng trung ương, yêu cầu in thêm tiền để bù đắp cho thâm hụt ngân sách.
Hai bài học này đã được sử dụng phổ biến để lý giải những mức “siêu lạm phát” vào hàng kỷ lục trong lịch sử, như những gì nước Đức đã trải qua vào thập niên 1920 hay Zimbabwe gặp phải cách đây chưa lâu.
Vậy liệu có chuyện nước Mỹ cũng sẽ đi vào con đường này?
Đúng là nước Mỹ đang gánh khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ và có tốc độ tăng trưởng cung tiền ở mức cao. Thâm hụt ngân sách liên bang của Mỹ trong quý đầu tiên của năm tài khóa 2010 lên tới 390 tỷ USD, tương đương với 11% GDP. Cách đây vài năm, ít ai có thể tưởng tượng ra nổi mức thâm hụt này.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cũng đang in tiền với tốc độ nhanh chóng. Lượng tiền trong lưu thông và dự trữ của các ngân hàng - lượng tiền mà ngân hàng trung ương kiểm soát trực tiếp nhất - tại nước này trong vòng 2 năm qua đã tăng hơn gấp đôi.
Tuy nhiên, dù hội tụ đủ cả hai yếu tố gây lạm phát cao nói trên, tới thời điểm này, nước Mỹ mới chỉ chứng kiến tốc độ tăng giá khá nhẹ nhàng. Thống kê cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lõi - không tính tới giá lương thực và năng lượng - tại Mỹ tăng chưa đầy 2%. Lãi suất dài hạn trên thị trường vẫn duy trì ở mức thấp, cho thấy giới đầu tư trái phiếu tại Mỹ chưa quá lo ngại về lạm phát.
Lý do tại sao?
Một phần của câu trả lời ở đây là, mặc dù nước Mỹ có thâm hụt ngân sách cao và tăng trưởng cung tiền mạnh, nhưng vấn đề này lại không phải là nguyên nhân của vấn đề kia. FED in tiền không phải để cung cấp cho hoạt động chi tiêu của Chính phủ Mỹ, mà là để giải cứu hệ thống tài chinh và vực dậy nền kinh tế nước này.
Ngoài ra, các ngân hàng tại Mỹ đã giữ phần lớn lượng cung tiền mới trong dự trữ. Trong điều kiện bình thường, khi FED tăng cung tiền, các ngân hàng thường sử dụng số tiền đó để cho vay, làm các lượng tiền khác tăng lên. Tuy nhiên, ở thời gian hiện nay thì khác. Với việc các ngân hàng có xu hướng găm giữ tiền nhàn rỗi, lượng tiền M2 (bao gồm tiền trong lưu thông, tiền trong các tài khoản séc và tiết kiệm) trong hai năm qua chỉ tăng với tốc độ hàng năm 6%.
Khi nền kinh tế phục hồi, các ngân hàng có thể bắt đầu cho vay một phần trong dự trữ của họ. Điều này có thể dẫn tới sự tăng trưởng nhanh chóng hơn của lượng cung tiền trên diện rộng, và rốt cục là lạm phát. Nhưng FED có những công cụ cần thiết để ngăn chặn điều này.
Thứ nhất, FED có thể bán ra một phần lớn danh mục các loại chứng khoán đảm bảo bằng các khoản vay địa ốc và các tài sản khác mà FED đã mua vào trong hai năm qua. Khi các nhà đầu tư của khối tư nhân mua vào các loại tài sản này, họ sẽ hút bớt lượng tiền dự trữ trong các ngân hàng và chuyển số tiền này sang FED.
Thứ hai, với sự điều chỉnh luật vào tháng 10/2008, FED đã có thêm một công cụ mới: ngân hàng trung ương này có thể trả lãi suất đối với dự trữ của các ngân hàng thương mại. Trong điều kiện lãi suất tại Mỹ gần mức 0% hiện nay, công cụ này hầu như chẳng có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phục hồi và lãi suất tăng, FED có thể tăng lãi suất trả cho các khoản dự trữ của các ngân hàng thương mại. Mức lãi suất cao dành cho dự trữ hơn sẽ giúp hạn chế việc các ngân hàng cho vay, qua đó hạn chế sự gia tăng mạnh của cung tiền và lạm phát.
Tuy nhiên, liệu Chủ tịch FED Ben Bernanke có sử dụng triệt để được những công cụ này khi cần thiết? Nhiều khả năng là ông Bernanke và các đồng nghiệp của ông có khả năng làm được việc này, nhưng vẫn có nhiều lý do để người ta nghi ngờ.
Trước hết, lạm phát ở tốc độ vừa phải cũng không phải là chuyện gì quá tệ hại. FED có thể sẽ để cho giá cả tăng lên, qua đó làm giảm lãi suất vay vốn thực tế, kích thích nền kinh tế đang ốm yếu của Mỹ. Rủi ro ở đây là cần xác định rõ mức độ lạm phát thế nào là vừa đủ để hỗ trợ tăng trưởng mà lại không vượt khỏi tầm kiểm soát. Công việc này không hề dễ dàng.
Thứ hai, FED rất dễ đánh giá quá cao tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. Trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cao như hiện nay, nhiều khả năng Tổng thống Barack Obama sẽ tăng nhiều khoản thuế trong vài năm tới. Thuế tăng đồng nghĩa với việc người lao động và các doanh nghiệp tìm thấy ít sự khuyến khích hơn, do đó sản lượng tiềm năng của nền kinh tế sẽ giảm. Nếu FED không lường được sự thay đổi này, FED có thể sử dụng “quá liều” cách thức kích thích tăng trưởng bằng lạm phát nói trên, đẩy tốc độ lạm phát leo thang mạnh.
Cuối cùng, thậm chí cả khi FED cam kết giữ lạm phát thấp và nhận thức được những thách thức phía trước, các chính trị gia có thể gây cản trở đối với những lựa chọn chính sách của FED. Việc tăng lãi suất để giải quyết những áp lực lạm phát đang treo lơ lửng không phải là một biện pháp được ưa chuộng, và sau cuộc khủng hoảng tài chính gần đây, FED không thể thu hút được nhiều sự ủng hộ cho lựa chọn này. Khi nền kinh tế phục hồi, việc phản ứng nhanh và đẩy đủ trước những mối đe dọa lạm phát cũng có thể gặp khó khăn trước sự phản đối của dư luận.
Trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 30 năm với mức lãi suất chưa đầy 5% hiện vẫn bán chạy. Điều này cho thấy, các nhà đầu tư trái phiếu tin rằng, FED sẽ giữ được những rủi ro lạm phát trong tầm kiểm soát, và có thể họ đúng. Nhưng vì chính sách tài khóa và tiền tệ của Mỹ hiện nay là chưa từng có tiền lệ, thật khó để khẳng định là ai sẽ đúng.
(Cổng thông tin kinh tế Việt Nam và Thế giới - tinkinhte.com)
Trong báo cáo về tình hình kinh tế tháng 9 vừa qua của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBSGTCQG), cơ quan này nhấn mạnh trong những tháng còn lại của năm 2012 Chính phủ cần tính toán và có những bước đi thận trọng trong việc điều chỉnh giá một số hàng hóa, dịch vụ. Trước mắt tạm thời chưa điều chỉnh thêm giá trong tháng 10 để củng cố tâm lý thị trường.
Các nhà kinh tế của IMF đã nghiên cứu lịch sử tất cả các thảm họa tài chính toàn cầu và khu vực từ năm 1970-2011. Tuy nhiên cũng còn có một điềm báo khác nữa – đa phần các cuộc khủng hoảng đều diễn ra vào năm trước bầu cử ở những nước lớn. Mà năm nay, ai cũng biết rằng, sẽ có cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ và sự thay đổi chính phủ theo kế hoạch ở Trung Quốc.
Dường như đang xuất hiện những thái độ lạc quan thái quá khi nhiều người đã tuyên bố tăng giá, bơm tiền vẫn không lo lạm phát. Trong khi những bài học về lạm phát trước đây do tiền tệ và giá cả vẫn còn nguyên giá trị.
Các bộ trưởng tài chính hàng đầu châu Âu khẳng định, Hy Lạp phải gia tăng hơn nỗ lực để giải quyết cuộc khủng hoảng tín dụng đang có nguy cơ lan sang cả các quốc gia khác trong khu vực.
Nhiều nhà phân tích đã đưa ra dự báo tỉ lệ lạm phát tháng 12 năm 2009 của Anh có thể đã vượt mức mục tiêu đề ra là 2% mà NHTW nước này đưa ra. Tuy nhiên số liệu chính thức sẽ sớm được cơ quan thống kê quốc gia công bố.
Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung cho rằng: theo quy luật về độ trễ của tăng trưởng tín dụng, từ 6-7 tháng sau khi “đạt đỉnh”, lạm phát cao sẽ xuất hiện.
Nhìn vào những dự đoán của thế giới cho thấy, các nước vẫn khá lạc quan với sự phục hồi kinh tế của Nga. Tuy nhiên, các biện pháp chống khủng hoảng của chính phủ Nga đạt hiệu quả đến đâu vẫn còn khiến nhiều nhà kinh tế tại Nga còn băn khoăn.
Giống như hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, Pháp nằm trong tâm bão khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ khủng hoảng cho vay dưới chuẩn (subprime).
Sau khi báo DĐDN có bài viết của tác giả Lê Duy Hiếu về việc khó có thể xảy ra lạm phát cao năm 2010, báo DĐDN đã nhận được phản hồi của chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Bích. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin giới thiệu bài viết này.
Nhận định về tiến độ phục hồi kinh tế nhanh chóng của châu Á, tạp chí Mỹ "Tiền tệ và thị trường" ngày 11/1 cho rằng các nền kinh tế ở châu lục này đã vượt qua những khó khăn của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhờ tiếp tục duy trì được "sự phát triển thần kỳ từ nhiều thập kỷ trước".
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.