Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đánh dấu sự phá sản của học thuyết kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ

Bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ từ cuối năm 2007, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ cuộc Ðại khủng hoảng kinh tế năm 1929 - 1933, mang tính thể chế và cơ cấu sâu sắc, suy thoái kinh tế có chiều hướng chuyển thành khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng đã đánh dấu sự phá sản của học thuyết kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ và nó đang và sẽ tác động mạnh mẽ, lâu dài đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới.
 
Cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ hiện nay bắt nguồn từ chính sách cho vay tín dụng dưới chuẩn (Subprime) hay còn gọi là tín dụng thế chấp rủi ro cao đối với thị trường bất động sản và việc thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng, "đồng USD rẻ" duy trì trong thời gian dài của chính quyền Mỹ, trong khi thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ của chính phủ, đã dẫn đến sự hình thành "siêu bong bóng" tài chính và bất động sản. Sự phát triển của nhiều dịch vụ và sản phẩm tài chính mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, biến đổi các khoản cho vay thành công cụ đầu tư, khiến thị trường tín dụng phục vụ cho thị trường bất động sản trở thành sân chơi cho nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong điều kiện không có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, quá trình này đã tích tụ, dẫn đến châm ngòi nổ cho sự đổ vỡ đối với thị trường tín dụng nhà đất, sau đó lan dây chuyền sang hệ thống tài chính ngân hàng Mỹ. Chính việc phá sản của các tập đoàn như Fannie Mae và Freddie Mac và các ngân hàng lớn như Lehman Brothers (ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ) và gần đây là City Bank Group đã cho thấy rõ điều đó. Hiện nay gần 1.200 ngân hàng Mỹ nộp đơn xin trợ cấp từ Chương trình hỗ trợ của chính phủ để tránh lâm vào khủng hoảng.
 

Khác với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 - 1998, là khủng hoảng cơ cấu mang tính chất khu vực, cuộc khủng hoảng tài chính lần này mức độ trầm trọng hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, không chỉ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mà đã lan sang các ngành sản xuất, dịch vụ và tác động ở quy mô toàn cầu, thời gian có khả năng kéo dài hơn, do vậy việc khắc phục hậu quả sẽ khó khăn hơn.
 

Tình trạng khó khăn, đổ vỡ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã lan sang các ngành sản xuất kinh doanh như công nghiệp ô-tô, xây dựng... Ba tập đoàn sản xuất ô-tô hàng đầu, trụ cột của kinh tế Mỹ là General Motors, Ford Motor và Chrysler LLC đang đề nghị chính phủ cứu trợ để khỏi lâm vào phá sản.
 

Kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh khoảng âm 0,3% trong quý III năm 2008. Mức chi tiêu của người tiêu dùng, vốn đóng góp tới hai phần ba vào sự tăng trưởng kinh tế Mỹ suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Thâm hụt ngân sách liên bang trong năm tài khóa 2008 tăng mạnh tới mức kỷ lục 454,8 tỷ USD, cao gấp ba lần mức thâm hụt 161,5 tỷ USD trong tài khóa năm 2007, chủ yếu do chi phí quốc phòng tăng mạnh, nhất là phục vụ cho hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Dự báo thâm hụt ngân sách liên bang trong tài khóa năm 2009 có thể lên tới 1.000 tỷ USD. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay của nước này lên đến 6,5% cao nhất trong 14 năm qua. Theo dự báo, kinh tế Mỹ tiếp tục suy thoái trong năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên 8%, trong khi các khoản tiền dự trữ và giá trị bất động sản giảm mạnh, chỉ số lòng tin của người dân Mỹ giảm xuống tới mức kỷ lục. Ðiều này càng làm cho nền kinh tế số một thế giới lâm vào thời kỳ suy thoái trầm trọng hơn.
 

Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính, chính quyền G.Bush đã đưa ra Chương trình cứu trợ tài chính trị giá 700 tỷ USD mà Quốc hội nước này đã thông qua sau nhiều lần sửa đổi. Bộ Tài chính Mỹ dự định bán trái phiếu trị giá tổng cộng 55 tỷ USD, bao gồm các trái phiếu có thời hạn phát hành ba năm nhằm đáp ứng nhu cầu vay tiền ồ ạt của các ngân hàng. Trước mắt cần thông qua gói trợ cứu mới 61 tỷ USD giải ngân cho chương trình bảo hiểm thất nghiệp, cải thiện điều kiện sống cho người nghèo. Ngày càng chìm sâu vào khủng hoảng nhưng cho đến lúc này, nội bộ nước Mỹ vẫn chưa thống nhất về cách thức sử dụng khoản tiền cứu trợ tài chính trị giá 700 tỷ USD. Trong khi chính quyền Tổng thống G.Bush muốn cứu trợ cho các ngân hàng, thì Quốc hội muốn cứu các gia đình khỏi bị tịch biên nhà, Tổng thống đắc cử B.Obama lại muốn trước hết cứu ngành công nghiệp ô-tô đứng trước bờ vực phá sản với khoản cứu trợ trị giá 25 tỷ USD. Chính phủ Mỹ đã vạch ra hướng cải thiện hệ thống quản lý ngân hàng, chống lại sự thiếu minh bạch trong thị trường tài chính và cải thiện những nguyên tắc tài chính, đề xuất việc thành lập một đoàn giám sát để theo dõi 30 ngân hàng lớn nhất và một hệ thống cảnh báo sớm.
 

Theo các chuyên gia kinh tế, nước Mỹ cần gói cứu trợ bổ sung khoảng 2.000 tỷ USD để vực dậy nền kinh tế đang suy sụp và tạo thêm 2,5 triệu việc làm vào năm 2010.
 
Không chỉ dừng lại ở các nền kinh tế hàng đầu thế giới như EU, Nhật Bản, "cơn bão tài chính" toàn cầu khởi nguồn từ Mỹ ngày 15-9 vừa qua đang tràn qua các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Brazil... những nơi được dự đoán là ít chịu tác động nhất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái của nền kinh tế Mỹ đang ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước trên thế giới. trong đó có Việt Nam.
 

Suy thoái kinh tế toàn cầu biểu hiện rõ sau khi các trung tâm kinh tế lớn nhất như Mỹ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu cùng lần lượt rơi vào suy thoái khủng hoảng. Tiếp theo Mỹ, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức công bố lâm vào suy thoái kinh tế ngày 18-11 sau khi tăng trưởng âm liên tiếp trong hai quý II và III năm nay. Như vậy, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001 kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái.
 

Trước đó, Khu vực đồng tiền chung euro cũng lần đầu tiên rơi vào suy thoái kể từ khi hình thành năm 1999. Theo số liệu thống kê cho thấy GDP của 15 nước sử dụng đồng tiền chung euro đã tăng trưởng âm liên tiếp trong quý II và quý III. Ðặc biệt trầm trọng đối với những nền kinh tế lớn trong khối như Ðức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thứ ba thế giới chính thức rơi vào cuộc suy thoái lớn nhất trong vòng 12 năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịu mức sút giảm mạnh nhất kể từ gần hai thập niên qua, số người thất nghiệp có thể lên tới ba triệu người vào năm 2010. Số liệu thống kê của Italia cho biết nền kinh tế nước này cũng đang rơi vào suy thoái, đây là cuộc suy thoái nặng nề nhất kể từ năm 1992.
 

Dưới tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế Trung Quốc vốn được coi là một động lực tăng trưởng của kinh tế thế giới, sau nhiều năm tăng trưởng ở mức hai con số, cũng đã giảm chỉ còn 9% trong quý III vừa qua. Ngân hàng Thế giới dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc chỉ tăng 7,5% trong năm 2008, mức thấp nhất trong vòng 19 năm qua. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng từ 16% tháng 6 xuống còn 8,2% tháng 10, thấp nhất trong bảy năm qua. Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài chính, theo dự báo sẽ còn khó khăn hơn trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảm nhiều ngành sản xuất khác và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
 

Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rúp mất giá mạnh, chính phủ đã phải chi 58 tỷ USD giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó, nguy cơ thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và kinh tế khó khăn, bởi thời kỳ thịnh vượng nhờ giá dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định và mạnh lên trong thời gian khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được giá, nhưng hiện đứng trước nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính và giá dầu thế giới giảm mạnh, xuống dưới 50 USD/thùng - đây là mức thấp nhất trong bốn năm qua. Nga đang thực hiện các giải pháp nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính ngày càng nghiêm trọng hiện nay. Dự định chi khoảng 190 tỷ USD nhằm hỗ trợ hệ thống tài chính và ngân hàng, các ngành kinh tế then chốt cũng như cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 

Hầu hết các nền kinh tế lớn ở Ðông - Nam Á đều định hướng xuất khẩu và phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Do vậy, dù ở mức độ khác nhau các nước trong khu vực Ðông - Nam Á dễ bị tác động của xu hướng giảm sút thương mại và đầu tư trên thế giới hiện nay. Trước mắt, lĩnh vực xuất khẩu, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ khu vực đang chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Singapore là quốc gia đầu tiên ở Ðông - Nam Á rơi vào suy thoái trong năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tế nước này là: xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, dịch vụ tài chính ngân hàng và du lịch đều bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 3%. Chính phủ đã phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng bước tăng giá đồng nội tệ SGD. Các biện pháp kích thích cả gói có thể làm cho thâm hụt ngân sách năm 2008 tăng lên gấp ba lần. Hàn Quốc và Thái-lan đã có biểu hiện của suy thoái kinh tế, trong bối cảnh đó Pakistan là nước châu Á đầu tiên kêu gọi Quỹ tiền tệ quốc tế trợ giúp 6,5 tỷ USD.
 

Có thể nói, đây là sự khủng hoảng dẫn tới phá sản của mô hình chủ nghĩa tư bản với kinh tế thị trường tự do mới mà định hướng chủ yếu là đẩy mạnh hoạt động của thị trường tự do, khuyến khích tư nhân hóa và hạn chế sự can thiệp kiểm soát của nhà nước.
 

Cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã đánh dấu sự sụp đổ của tư tưởng tự do kinh tế, lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh với "bàn tay vô hình" là thị trường bị thất bại dẫn đến sự ra đời của lý thuyết kinh tế "chủ nghĩa tư bản có điều tiết" của John Maynard Keynes ra đời năm 1936, chủ trương nhà nước can thiệp, điều tiết nền kinh tế. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1974 - 1975, với những căn bệnh trầm trọng của chủ nghĩa tư bản như lạm phát gắn với suy thoái, khủng hoảng cơ cấu đã làm cho học thuyết của J.Keynes rơi vào khủng hoảng.
 

Suốt trong thời gian dài từ những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay, lý thuyết chi phối sự vận hành của nền kinh tế Mỹ bắt nguồn từ lý thuyết kinh tế thị trường tự do mới của Ronald Reagan và Magaret Thatcher. Cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng tại nền kinh tế lớn nhất thế giới đã khiến ông Greenspan sau hơn 18 năm làm chủ tịch Cục Dự trữ LB Mỹ (FED), một người vốn tin tưởng tuyệt đối vào điều tiết của thị trường tự do, đã thừa nhận sự thất bại của mô hình chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường tự do mới. Ông đề nghị Chính phủ Mỹ xem xét ban hành các quy định quản lý kinh tế chặt chẽ hơn, để các định chế tài chính không thể mạo hiểm bỏ vốn vào các khoản đầu tư rủi ro, sau đó chính phủ lại phải đứng ra cứu trợ, thiếu sự kiểm soát của nhà nước trong hoạt động của thị trường tài chính sẽ tiềm ẩn nguy cơ và dẫn đến khủng hoảng.
 

Cuộc khủng hoảng này đặt yêu cầu phải cơ cấu lại nền kinh tế tài chính trên phạm vi toàn cầu, cải tổ lại hoạt động của các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) từ cấu trúc đến phương thức vận hành phù hợp với hoàn cảnh mới.
 

Việc cải cách hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế ngày một cấp thiết, trên thực tế, quy tắc vận hành của hệ thống tài chính quốc tế từ trước tới nay đều do các nước phát triển đặt ra, thiếu tính dân chủ và xem nhẹ quyền lợi của các nước đang phát triển. Rõ ràng hệ thống tiền tệ với đồng USD là chủ đạo hiện nay ngày càng cho thấy tính bất ổn của nó, dễ dẫn đến sự mất cân bằng kinh tế toàn cầu. Vì thế, cần phải xác lập một mô hình tài chính mới thay thế mô hình cũ hình thành từ Hội nghị Bretton Woods năm 1944 nay đã không còn phù hợp. "Cần thiết phải xây dựng cơ chế tài chính toàn cầu một cách cởi mở, công bằng, hiệu quả và hợp pháp" - Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đề nghị.
 

Cuộc khủng hoảng này đánh dấu sự suy yếu vị thế kinh tế - tài chính của Mỹ, cùng với những khó khăn và thách thức khác đang làm giảm vị thế và hình ảnh của Mỹ trên trường quốc tế, điều này đẩy nhanh sự chuyển dịch kinh tế thế giới sang một hệ thống đa cực hơn, thúc đẩy xu hướng dần hình thành thế giới đa cực trong thời gian tới.
 
So sánh lực lượng giữa các nước lớn, giữa các trung tâm kinh tế và chính trị thế giới tiếp tục thay đổi sâu sắc. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nền kinh tế đang phát triển, trong đó nổi bật nhất là Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Brazil tạo thành nhóm "tứ cường" BRIC thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong cục diện kinh tế toàn cầu. Trong nhóm đó phải kể đến sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc, sau 30 năm thực hiện chính sách cải cách mở cửa, năm 2007 lần đầu tiên đóng góp của Trung Quốc vào tăng trưởng toàn cầu đã vượt Mỹ tính theo giá thị trường (17% so với 14%), nền kinh tế có quy mô đứng thứ 4 thế giới, với dự trữ ngoại tệ 1.900 tỷ USD. Xu thế chuyển dịch của kinh tế thế giới sẽ tiến đến nền kinh tế đa cực trong đó các nền kinh tế lớn vừa hợp tác, vừa kiềm chế và cạnh tranh quyết liệt với nhau hơn.
 

Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy khẳng định cần điều chỉnh lại chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu. Tổng thống Mỹ G.Bush thừa nhận rằng "cuộc khủng hoảng hiện thời sẽ thúc đẩy chúng ta xây dựng lại nền tảng của chủ nghĩa tư bản. Chúng ta cần tìm ra thế cân bằng giữa nhà nước và thị trường". Không phải ngẫu nhiên mà bộ "Tư bản" của Kark Mark được tái bản và bán chạy tại nhiều nước phương Tây. Ðiều Mark khẳng định trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng trở nên sâu sắc đó là "Sản xuất đã trở thành một hành vi xã hội, trao đổi và cùng với trao đổi là sự chiếm hữu, vẫn là những hành vi cá nhân, hành vi của những người riêng biệt". Ðó là mâu thuẫn cơ bản giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Từ mâu thuẫn này nảy sinh ra tất cả những mâu thuẫn trong đó xã hội tư bản vận động, tình trạng vô chính phủ, hậu quả của xu hướng phát triển quá nhanh của hệ thống tài chính - tiền tệ, trong đó tiền tách khỏi hàng, tiền đẻ ra tiền với giá trị lớn hơn giá trị hàng hóa hàng trăm lần; lượng tiền khổng lồ đó lại được chuyển dịch nhanh chóng, chằng chịt tới mức không thể kiểm soát nổi. Có thể nói đó là một nền "kinh tế ảo" "tiền tệ ảo" chưa có tiền lệ, điều này dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Phù hợp với học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người như là một quá trình lịch sử tự nhiên, Kark Mark cho rằng, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao hơn và tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.

( Theo báo Nhân dân)

Bài thuộc chuyên đề: Nghiên cứu Khủng hoảng kinh tế - Việc làm - Thất nghiệp

  • Nhìn lại thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm và dự báo
  • Việt Nam: Nghịch lý ngân hàng sống nhờ “bầu sữa” ngân sách
  • Ngân hàng làm gì với thế hệ Y?
  • Thế hệ Y và cuộc cách mạng trong ngân hàng bán lẻ
  • Nguy cơ nợ công Việt Nam thực sự nằm ở đâu?
  • Tài chính ngân hàng - Lợi nhuận ngân hàng khó về đích đúng hẹn
  • Góc nhìn Đầu Tư - Điều hành là yếu tố số 1
  • Sinh lãi với cổ phiếu nào?
  • Điều hành là yếu tố số 1
  • Chậm giải ngân vốn FDI
  • Chuyện không có gì mới
  • Kém hấp dẫn
  • Vốn ODA cho công nghệ thông tin: Chậm và lúng túng
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!