Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Kinh tế vĩ mô: Ổn định tiền đồng nên được ưu tiên

Ổn định tiền đồng nên được ưu tiên
(Theo Hoài Thu // Vneconomy)

Trong vòng chưa đầy ba tháng vào cuối năm ngoái và đầu năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá hai lần theo hướng giảm giá tiền đồng. - tinkinhte.com
Trong vòng chưa đầy ba tháng vào cuối năm ngoái và đầu năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá hai lần theo hướng giảm giá tiền đồng.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam trong hai tháng đầu năm đã tăng đến 3,35% so với cuối năm ngoái. Chỉ trong hai tháng đầu năm, lạm phát đã tăng gần một nửa so với kế hoạch 7% của cả năm.

Nguyên nhân của việc chỉ số giá tăng cao trong thời gian qua là gì? Liệu Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước có thể kiểm soát được tốc độ tăng  lạm phát ở mức đề ra không? Bài viết cũng thử đưa ra một số giải pháp cho việc kiểm soát lạm phát trong thời gian tới.

Số liệu trong bài được sử dụng từ nguồn của Tổng cục Thống kê, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Nhà nước.

Hệ quả và tâm lý

Trong tháng 2/2010, tỷ lệ lạm phát so với tháng trước đó là 1,96%, thấp hơn so với mức trung bình trong tháng 2 kể từ năm 2004 trở lại đây.

Một số quan điểm về phía Chính phủ cho rằng lạm phát đang trong tầm kiểm soát và Việt Nam hoàn toàn có đủ cơ sở để giữ lạm phát ở mức 7% như kế hoạch đề ra. Quan điểm của người viết cho rằng tỷ lệ lạm phát tuy tương đối thấp so với các năm trước đó, nhưng chưa phải là dấu hiệu lạc quan, vì những lý do dưới đây.
 

Tốc độ tăng CPI theo năm và theo tháng.

Thứ nhất, mặc dù tỷ lệ lạm phát tháng 2 so với tháng trước đó không phải ở mức cao nếu so tương đối với các năm trước, tuy nhiên, tốc độ tăng lạm phát trong 2 tháng đầu năm so với cuối năm trước đó khá cao, ở mức 3,35%. Tốc độ tăng CPI tháng 2 theo năm lên tới 8,46%, và xu hướng tăng lạm phát theo năm chưa có dấu hiệu dừng lại khi tỷ lệ tăng CPI tháng 3 trong năm nay so với tháng trước đó được dự báo tăng cao hợn nhiều so với mức -0,17% vào năm ngoái.

Thứ hai, nhìn vào nguyên nhân của tăng CPI mạnh trong hai tháng đầu năm, theo người viết, không chỉ nằm ở yếu tố thời vụ và sự tăng giá của các hàng hóa cơ bản trên thế giới, mà còn là hệ quả tất yếu của chính sách nới lỏng tài khóa, tiền tệ và chính sách tỷ giá đã được cảnh báo từ đầu năm ngoái.

Về chính sách tiền tệ, mặc dầu Ngân hàng Nhà nước đã giảm được tăng trưởng tín dụng vào cuối năm ngoái, nhưng sự tăng trưởng tín dụng từ tháng 3 cho đến tháng 11/2009 là một nguyên nhân thúc đẩy lạm phát tăng cao vào đầu năm nay. Trong thời gian đề cập ở trên, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân mỗi tháng ở mức 3,1%.

Mặc dầu, tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh vào tháng 12/2009, nhưng cả năm tăng trưởng tín dụng ở mức 37,7%, và tốc độ tăng trưởng cung tiền ở mức 26,6% trong năm qua cao so với tốc độ tăng trưởng GDP thực chỉ ở mức 5,32%.

Xét theo khung thời gian dài hơn về mối quan hệ giữa cung tiền và tốc độ tăng trưởng thực GDP trong thời gian gần đây, cho thấy CPI liên tục tăng ở mức cao không có gì là ngạc nhiên. Trong 5 năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm của cung tiền danh nghĩa ở mức 30,9%, trong khi tăng trưởng tín dụng bình quân ở mức 34,3%.

Nhìn vào đồ thị của hai chuỗi số liệu về tăng trưởng tín dụng và tốc độ tăng CPI, cho thấy sự gia tăng của tốc độ tăng CPI theo sau tăng trưởng của tín dụng, và mối quan hệ này có độ trễ từ 7-8 tháng (xem đồ thị bên dưới).

Tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán và CPI.

Về chính sách tài khóa, thâm hụt ngân sách là khá cao do Chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế vào năm ngoái nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Quy mô lớn của gói kích cầu trị giá gần 7 tỷ Đô la đã được các nhà kinh tế cảnh báo về nguy cơ gây lạm phát từ đầu năm. Trong năm ngoái, thâm hụt ngân sách lên tới 6,9% GDP, là mức cao so với mức chấp nhận thông thường ở mức 5% GDP ở Việt Nam. Tăng chi tiêu Chính phủ khiến cho cầu về hàng hóa tăng, thúc đẩy giá tăng, đồng thời thâm hụt ngân sách liên tục sẽ gây áp lực cho in tiền để tài trợ cho các khoản chi tiêu của Chính phủ.

Cũng không thể không đề cập đến chính sách điều chỉnh tỷ giá khi nói đến yếu tố nguyên nhân tăng giá trong hai tháng vừa qua. Trong vòng chưa đầy ba tháng vào cuối năm ngoái và đầu năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá hai lần theo hướng giảm giá tiền đồng.

Ngoài ra, yếu tố tâm lý của doanh nghiệp cũng như người dân cũng là nguyên nhân quan trọng giải thích lạm phát lần này. Mối lo ngại về tình trạng tăng giá cả hàng hoá, tác động đẩy giá nhiều mặt hàng đứng ở mức cao.

Các yếu tố gây áp lực lạm phát

Tại thời điểm này, chỉ số lạm phát tháng 3/2010 chưa được công bố tuy nhiên, nhiều những yếu tố cho thấy tốc độ tăng theo tháng của CPI của tháng 3 sẽ ở mức tương đối cao so với những năm trước, khi tháng 2 và đầu tháng 3 chứng kiến sự điều chỉnh của một số mặt hàng thiết yếu như giá xăng được điều chỉnh tăng thêm từ 550-590 đồng/lít bắt đầu từ ngày 21/2/2010 và giá điện được điều chỉnh tăng trung bình là 6,8%.

Và việc điều chỉnh tỷ giá vào ngày 11/2 cũng sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng đến chỉ số giá cả trong tháng 3, do độ trễ của cơ chế tác động. Giá cả đầu vào tăng thì giá cả đầu ra tăng là chuyện bình thường, chưa kể đến nhiều mặt hàng tăng giá kiểu “té nước theo mưa”.
 
Theo người viết, trong khoảng thời gian từ thời điểm này đến cuối năm, nguy cơ lạm phát có thể nằm ở những yếu tố sau.

Thứ nhất, nguy cơ lạm phát đến từ giá cả hàng hóa thế giới tăng. Trước sự phục hồi của nền kinh tế thế giới thì nhiều khả năng giá dầu và giá lương thực sẽ tăng cao, tạo lạm phát chi phí đẩy. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), giá dầu thế giới năm nay sẽ tăng 22,6% so với năm ngoái. Việc giá dầu tăng tất yếu sẽ kéo theo sự điều chỉnh của giá xăng trong nước, gây tác động làm tăng chi phí của doanh nghiệp, kết quả là giá cả hàng hóa tăng.

Thứ hai, nguy cơ lạm phát đến từ khả năng điều chỉnh tỷ giá theo hướng tiền đồng yếu đi, do áp lực từ việc thâm hụt thương mại đang tiếp tục gia tăng.

Thứ ba, nguy cơ lạm phát đến từ khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng. Mặc dầu trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, tuy nhiên với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% trong năm nay, sẽ có những áp lực tăng trưởng tín dụng từ nay đến cuối năm.

Thứ tư, nguy cơ lạm phát đến chính sách tài khóa mở rộng hướng vào mục tiêu tăng trưởng. Mục tiêu của Quốc hội đưa ra trong năm nay là chấp nhận ngân sách thâm hụt ở mức 6,2% GDP, chỉ thấp hơn mức thâm hụt năm ngoái là 0,7%. Thêm vào đó, khả năng dễ dàng tiếp cận tín dụng mềm của các tổng công ty lớn Nhà nước làm ăn không hiệu quả là nguy cơ gây lạm phát tiềm ẩn không chỉ trong ngắn hạn mà trong cả trung và dài hạn.

Một vài đề xuất kiểm soát lạm phát

Thứ nhất, về chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao khả năng kiểm soát cung tiền và tăng trưởng tín dụng thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. Hay nói cách khác, Ngân hàng Nhà nước cần giảm thiểu việc áp dụng các biện pháp hành chính đối với việc kiểm soát cung tiền và tín dụng.

Kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2009 cho thấy mặc dầu Ngân hàng Nhà nước đã đưa rất nhiều những cảnh báo và mệnh lệnh hành chính nhằm ngăn chặn tăng trưởng tín dụng, tuy nhiên vẫn không cản trở tăng trưởng tín dụng lên mức 37,7% từ mức mục tiêu ban đầu là 25%.

Cụ thể, về chính sách lãi suất, theo người viết, bỏ trần lãi suất huy động hoặc nâng trần lãi suất huy động là việc cần làm để hút thêm tiền vào hệ thống ngân hàng. Hiện tại, việc quy định trần lãi suất tiền gửi ở mức 10,5% đang gây khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động vốn Mặc dầu, các ngân hàng cũng áp dụng trả lãi suất tăng thêm khoảng 1-2% so với mức lãi suất trần qui định đối với khách hàng VIP nhưng mức lãi suất này vẫn chưa đủ hấp dẫn để tăng lượng tiền gửi. Trong ba tháng gần đây, tốc độ tăng trưởng huy động tiền gửi âm hoặc gần với không.

Tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tiền gửi.

Theo người viết, lãi suất tiền gửi nên được điều chỉnh tăng, để khuyến khích người dân gửi tiền vào hệ thống ngân hàng và lãi suất cho vay cao, dẫn tới giảm tăng trưởng tín dụng và từ đó cải thiện được chỉ số tổng tín dụng trên tổng tiền gửi.

Thêm vào đó, việc kiểm soát tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là điều cần bàn khi lãi suất cho vay ở mức cao nhằm tránh sự lựa chọn bất lợi. Hiện tại, mức lãi suất mà ngân hàng thông thường áp dụng đối với cho vay sản xuất kinh doanh ở mức 16-17% vô hình dung đã loại bỏ những dự án ít rủi ro có suất sinh lời dưới mức 16-17%. Thay vào đó, chỉ những dự án có suất sinh lời cao mới có thể chấp nhận mức lãi suất này. Trong kinh tế thị trường, những dự án có suất sinh lời cao thường đi kèm với rủi ro cao.

Thứ hai, về chính sách điều chỉnh tỷ giá, theo người viết, trong trường hợp phải điều chỉnh, Ngân hàng Nhà nước nên tránh gây sốc cho thị trường ở mức thấp nhất, không để việc điều chỉnh rơi vào tình trạng "nước đến chân mới nhảy".
 
Thứ ba, về chính sách tài khóa. Ngoài việc kiểm soát chi tiêu công hiệu quả, Chính phủ nên có cơ chế kiểm soát đầu tư của các tập đoàn Nhà nước và tạo sự công bằng trong việc tiếp cận tín dụng đối với khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước nên tăng cường công tác thông tin dự báo, cũng như tính hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ và lựa chọn các công cụ của chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ trong trung hạn nên hướng tới kiểm soát lạm phát hơn so với việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Trong năm nay, tỷ lệ lạm phát sẽ phụ thuộc vào sự hy sinh cho tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Mặc dầu, Việt Nam đang trên đà hồi phục sau thời kỳ suy thoái, nhưng quan điểm của người viết cho rằng việc giữ ổn định tiền đồng trong năm nay cần đặt lên hàng đầu. Có lẽ, cảnh báo của IMF không thừa khi cho rằng “Việt Nam cần giám sát tình hình lạm phát chặt chẽ, đặc biệt khi giá hàng hóa tiếp tục tăng ở mức cao trong năm 2010”.


Chính sách tiền tệ của NHNN: Chìa khóa của toàn bộ cuộc chơi
(Theo Báo Doanh nhân)

Tâm điểm dư luận hiện nay là việc chính sách tiền tệ sẽ được điều chỉnh như thế nào. Dưới góc nhìn của công ty cổ phần chứng khoán TP HCM (HSC), vấn đề trên được mổ sẻ khá rõ ràng.

Hoạt động của nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả điều             hành chính sách tiền tệ của NHNN - tinkinhte.com
Hoạt động của nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN

 

 Vào tháng 11/2009, sau 9 tháng duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, NHNN đã phát tín hiệu sẽ thay đổi và chuyển từ chính sách tiền tệ nới lỏng sang chính sách tiền tệ chặt nhằm kiểm soát giá trị đồng VND do vào thời điểm đó đã xuất hiện những dấu hiệu của việc mất kiểm soát. Ngoài ra, điều này còn nhằm ngăn chặn lạm phát tăng cao. Chính sách tiền tệ thắt chặt đã được áp dụng kể từ thời điểm trên, và giờ đây khi giá trị đồng VND đã ổn định hơn, chúng tôi cho rằng chính sách tiền tệ có thể sớm được nới lỏng trở lại.

NHNN có ba chế độ chính sách cơ bản để kiểm soát nền kinh tế và đạt được những mục tiêu của mình. Chúng tôi xin đưa ra lý thuyết về các chế độ chính sách của NHNN như sau:

Xanh – Khi tăng trưởng được coi là ưu tiên hàng đầu thì chính sách tiền tệ sẽ ở chế độ “bật đèn xanh”. Tăng trưởng tín dụng sẽ được thúc đẩy và hạn chế duy nhất là huy động vốn có thể tăng trưởng bao nhiêu (nói cách khác là ngân hàng chỉ cần giữ tỷ lệ vốn huy động/vốn cho vay trong phạm vi cho phép); cung tiền sẽ được mở rộng và dư thừa so với nhu cầu để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP nhất định; lãi suất được duy trì ở mức thấp bằng với mức lạm phát dự phòng. Thông thường với chế độ chính sách này, tăng trưởng tín dụng sẽ trên 25% với tăng trưởng cung tiền cũng ở xấp xỉ. Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở cũng thể hiện sắc thái của chính sách nới lỏng, lãi suất ổn định hoặc giảm và thanh khoản trong hệ thống ngân hàng ở mức cao. Mức tăng CPI theo tháng dưới 1%. Thị trường chứng khoán tăng điểm. Giai đoạn này thường kéo dài từ 6 - 12 tháng.

Vàng – Chế độ chính sách này thường được sử dụng sau một thời gian khá dài thực hiện chế độ chính sách “bật đèn xanh”. Bắt đầu có những áp lực xuất hiện trong hệ thống. CPI tăng và mức tăng có thể đạt trên 1%/tháng. Vấn đề tỷ giá sẽ trở nên bất ổn hơn do thâm hụt thương mại bắt đầu tăng và nguồn cung VND dẫn đến lạm phát dự báo tăng. Các nhà đầu tư do lo ngại rủi ro đối với đồng VND sẽ chuyển từ VND sang USD hoặc vàng, khiến đồng VND trên thị trường tự do bị trượt giá so với USD. Chênh lệch tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá chính thức có thể sẽ ngày càng mở rộng. Và khi đó, NHNN sẽ buộc phải hành động. Chính sách tiền tệ sẽ được thắt chặt dần theo các giai đoạn; thanh khoản sẽ giảm do NHNN rút tiền về qua thị trường mở; tăng trưởng tín dụng sẽ giảm và việc cho vay sẽ trở nên khó khăn hơn trước. Tại thời điểm này, NHNN có thể sẽ sử dụng các biện pháp nhằm đưa tỷ giá thị trường tự do về sát với tỷ giá chính thức thông qua việc giảm giá đồng tiền hoặc mở rộng biên độ tỷ giá chính thức. Điều này cho thấy đây là giai đoạn mà các biện pháp chính sách được thực hiện mạnh nhất, trong đó NHNN thắt chặt thanh khoản nhằm đưa giá trị đồng VND về phạm vi nhất định. Giai đoạn này có thể kéo dài khoảng 3 tháng cho đến khi sự cần bằng được thiết lập trở lại.

Hiện tại đã có một dự thảo luật được đưa ra tại Quốc hội, theo đó cho phép NHNN được hoạt động độc lập hơn.

Đỏ - Nếu chế độ chính sách “bật đèn vàng” không phát huy được tác dụng hoặc nếu có dấu hiệu lạm phát sẽ tăng mạnh thì NHNN có thể sẽ bắt buộc phải dùng đến chế độ chính sách “bật đèn đỏ”. Trong kịch bản sắc thái chính sách này, mức tăng CPI theo tháng sẽ trên 1% trong nhiều tháng và đồng VND có dấu hiệu bị mất giá mạnh. Các nhà đầu tư chuyển hết tài sản bằng đồng VND sang vàng hoặc USD. NHNN sẽ phản ứng bằng cách thắt chặt tín dụng. Khuynh hướng tăng trưởng tín dụng sẽ đảo ngược do hoạt động cho vay của các ngân hàng sẽ đột ngột bị ngừng trệ. Thanh khoản sẽ bị rút khỏi hệ thống ngân hàng thông qua nhiều biện pháp như: tăng dự trữ bắt buộc; tiền được hút về qua thị trường mở; tín phiếu kho bạc được phát hành và một chu kỳ tăng lãi suất nhằm ngăn chặn lạm phát sẽ bắt đầu. Bên cạnh đó, NHNN cũng sẽ có biện pháp kiểm soát giá trị đồng VND; tương tự như trong trường hợp áp dụng chế độ chính sách “bật đèn vàng”, chỉ khác là các biện pháp sẽ được thực hiện quyết liệt hơn. Giai đoạn này thường kéo dài từ 3 -6 tháng.

NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ “bật đèn xanh” từ quý 1 cho tới quý 4 năm ngoái. Hiện tại, chính sách tiền tệ “bật đèn vàng” đang được áp dụng. Tuy nhiên, do tình hình hiện tại không còn căng thẳng nên theo chúng tôi, có nhiều khả năng chính sách “bật đèn xanh” hay chính sách ưu tiên tăng trưởng sẽ được áp dụng sau đó. Không giống như năm 2008, phản ứng về mặt chính sách của NHNN lần này nhanh hơn.

Và nếu có sự thay đổi đột ngột trong chính sách thì sự thay đổi đột ngột đó là do khó khăn trong việc thực hiện dung hòa các mục tiêu. Nếu quá tập trung vào tăng trưởng tín dụng thì giá trị đồng VND sẽ giảm và sẽ xuất hiện nguy cơ lạm phát cao. Việc hãm phanh đối với tăng trưởng tín dụng quá nhanh đồng thời thực hiện việc thắt chặt tín dụng sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng. Kết quả là các chu kỳ chính sách tiền tệ tại Việt Nam có khuynh hướng khá ngắn với mỗi giai đoạn trong một chu kỳ (được biểu hiện thông qua 3 màu xanh, đỏ, vàng) trung bình chỉ kéo dài từ 6 - 12 tháng, trong đó giai đoạn “bật đèn xanh” hay giai đoạn ưu tiên tăng trưởng thường kéo dài nhất, từ 9 - 12 tháng. Sau đó sẽ là giai đoạn thực hiện chính sách “bật đèn vàng” và thậm chí là “bật đèn đỏ” và giai đoạn này kéo dài từ khoảng 3 - 6 tháng.

Hiện tại đã có một dự thảo luật được đưa ra tại Quốc hội, theo đó cho phép NHNN hoạt động độc lập hơn và xác định rõ ràng hơn vai trò của cơ quan này. Giả sử dự thảo luật này được thông qua vào năm sau, thì sớm nhất cũng phải đến năm 2012 nó mới có hiệu lực. Khi luật này được thực thi, chu kỳ chính sách sẽ kéo dài hơn khi nền kinh tế đã lớn hơn và ngân hàng trung ương có thêm quyền để có thể có những biện pháp can thiệp nhanh hơn. Nhưng đồng thời, việc điều hành chính sách tiền tệ cũng sẽ được chia sẻ giữa NHNN và các cơ quan khác như Hội đồng tư vấn tiền tệ quốc gia.


Lựa chọn chính sách tài chính, tiền tệ sau khủng hoảng
TS Vũ Ðình Ánh(Viện NCKH Thị trường Giá cả)

Sự phát triển kinh tế của Việt Nam năm 2010 phụ thuộc rất nhiều vào các mục tiêu mà chúng ta đặt ra và lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mô để đạt được các mục tiêu đó. Các mục tiêu lại đòi hỏi lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. Vì vậy, lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cần thận trọng, dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn.

Ba nhóm nhiệm vụ chiến lược

Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 nên cũng là cơ hội cuối cùng để đạt các mục tiêu của chiến lược. Với mục tiêu quan trọng hàng đầu là tăng gấp hai lần quy mô GDP sau 10 năm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 phải đạt tối thiểu 6,5% như Nghị quyết Quốc hội đã thông qua. Rõ ràng đây là mục tiêu không đơn giản khi bối cảnh quốc tế chưa hoàn toàn thuận lợi và nhân tố tăng trưởng kinh tế không có thay đổi cơ bản sau một thập kỷ. Trên con đường gập ghềnh đó, "cỗ xe" kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên những động lực truyền thống là:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng đầu tư với tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội tăng liên tục từ mức một phần ba GDP cuối thế kỷ 20 lên hơn 40% GDP mấy năm gần đây, theo đó, hiệu quả đầu tư tổng thể giảm mạnh thể hiện qua hệ số ICOR tăng cao.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chậm nên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể đạt mục tiêu chiến lược nhưng hầu như không có thay đổi về chất trong tăng trưởng, hơn nữa, đáng lo ngại là không thể tạo tiền đề đột phá tăng trưởng ở mức cao hơn.

Thứ ba, mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu trong khi chuyển dịch cơ cấu hàng hóa và thị trường xuất khẩu hạn chế. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm khai khoáng và thô vẫn chiếm ưu thế trong khi nhóm hàng công nghiệp nhẹ vẫn chủ yếu là gia công tận dụng lao động giản đơn giá rẻ có giá trị gia tăng thấp... Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu cũng chậm thay đổi nên mặc dù tổng kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đóng góp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa còn rất hạn chế. Nhập khẩu máy móc thiết bị để đổi mới công nghệ, tăng năng suất và chất lượng chỉ chiếm khoảng một phần tư  tổng kim ngạch nhập khẩu trong khi nhập khẩu nguyên nhiên liệu chiếm tới hai phần ba tổng kim ngạch nhập khẩu...

Thứ tư, ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Mức độ lạm phát (thể hiện qua CPI) giai đoạn 2001-2010 thấp hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, nếu lạm phát giai đoạn 1991-2000 có xu hướng giảm đều đặn thì từ năm 2001 lạm phát lại có xu hướng tăng. Quan trọng hơn, CPI của những hàng hóa dịch vụ thiết yếu lại tăng cao hơn CPI chung nên đã tác động trực tiếp tới thu nhập thực tế và mức sống của đại bộ phận người dân có thu nhập trung bình và thấp.

Kiểm soát lạm phát trở thành trọng tâm trong ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong nhiều năm qua, song gần đây việc duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế cũng đang nổi lên nhiều vấn đề, ảnh hưởng trực tiếp tới ổn định kinh tế vĩ mô và hạn chế không gian điều hành chính sách. Nổi bật là thâm hụt cán cân thương mại. Tuy xuất khẩu có những tiến bộ vượt bậc về kim ngạch, nhưng do những hạn chế về cơ cấu, mô hình phát triển xuất khẩu và hạn chế trong kiểm soát nhập khẩu nên nhập siêu đã kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế - xã hội. Mục tiêu kiểm soát nhập khẩu để đẩy thâm hụt thương mại xuống dưới mức 10% GDP và dưới 20% tổng kim ngạch xuất khẩu là rất cấp thiết để ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời tạo tiền đề và động lực để cơ cấu lại nền kinh tế, rút ngắn thời gian tiến tới cân bằng cán cân thương mại.  

Thâm hụt thương mại là yếu tố quyết định gây thâm hụt cán cân vãng lai nặng nề trong những năm gần đây, kéo theo thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể. Bên cạnh thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách Nhà nước (NSNN) kéo dài trong nhiều năm cũng làm tăng thêm những rủi ro cho nền kinh tế, cả rủi ro tăng trưởng và mất ổn định kinh tế vĩ mô.

Tóm lại, để bảo đảm đến năm 2020, Việt Nam có một nền kinh tế có quy mô tương xứng với dân số khoảng 100 triệu người và cơ cấu phù hợp với một nước công nghiệp thì ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ thường xuyên, duy trì các cân đối vĩ mô được coi là nhiệm vụ trung hạn và cơ cấu lại nền kinh tế thuộc nhiệm vụ trung, dài hạn. Những lựa chọn chính sách của Việt Nam trước mắt trong năm 2010 và các năm tiếp theo đều cần nhằm thực hiện ba nhóm nhiệm vụ chiến lược nêu trên. 

Lựa chọn chính sách tài khóa

Trọng tâm trong ngắn hạn của chính sách tài khóa là giữ vững mức động viên vào NSNN khoảng một phần tư GDP, không giảm nhưng cũng không được tăng để không tăng thêm gánh nặng huy động vào NSNN cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, giảm đến mức thấp nhất và tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về thành phần kinh tế trong cả thực hiện nghĩa vụ thu nộp NSNN cũng như thụ hưởng các khoản chi NSNN và mang tính chất chi NSNN.

Ưu tiên thứ hai là giảm mức độ thâm hụt NSNN trong lộ trình tiến tới cân bằng cán cân NSNN trong dài hạn. Trước mắt, chấm dứt chính sách nới lỏng tài khóa, nhất là nới lỏng thông qua tăng chi đầu tư phát triển, đồng thời xúc tiến chương trình cơ cấu lại chi NSNN theo hướng: ưu tiên đáp ứng đủ chi thường xuyên gắn với cải cách hành chính, tinh giản bộ máy và cắt giảm thủ tục; chi đầu tư phát triển hướng vào thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; bảo đảm chi trả nợ đầy đủ, trong kế hoạch có thể bố trí trả nợ trước hạn.

Bên cạnh đó, chính sách quản lý nợ, cả nợ công và nợ nước ngoài nên theo hướng không làm tăng quy mô nợ, đồng thời quản lý nợ trên cơ sở bảo đảm  hiệu quả cả vay và sử dụng các khoản nợ, đặc biệt chú trọng quản lý rủi ro về vay nợ, vừa tránh tình trạng không phát hành được các công cụ nợ, vừa không sử dụng được nguồn thu từ các công cụ nợ đã phát hành như trong mấy năm gần đây.

Lựa chọn chính sách tiền tệ

Nếu chính sách tài khóa nên "trung tính" trong ngắn hạn và chủ động thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế trong trung, dài hạn thì chính sách tiền tệ trở thành công cụ chính sách then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo đảm ổn định vĩ mô. Tính linh hoạt và tính thị trường của chính sách tiền tệ cần được phát huy để thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu then chốt này.

Một mặt, tăng tổng tín dụng vẫn đã, đang và sẽ là nhân tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi các kênh tài chính khác cho doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Thực tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có quan hệ hữu cơ với mở rộng tín dụng. Mặt khác, mức độ ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là lạm phát ở Việt Nam cũng có quan hệ biện chứng với tốc độ tăng tín dụng tuy có một độ trễ nhất định. Chính vì vậy, vấn đề quan trọng là hướng nguồn vốn tín dụng tới những khu vực kinh tế thật sự có hiệu quả trong trung và dài hạn, tránh chạy theo hiệu quả kinh tế ngắn hạn (chứng khoán, bất động sản, ngoại tệ mạnh) có thể tạo ra "bong bóng" và gia tăng nợ xấu.

Chính sách lãi suất cũng cần được áp dụng linh hoạt và theo cơ chế thị trường. Lãi suất cơ bản, tái chiết khấu và tái cấp vốn được điều chỉnh linh hoạt kết hợp với nghiệp vụ thị trường mở để giải quyết đồng thời hai bài toán, bảo đảm nguồn vốn có "giá cả" hợp lý để doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, ngăn chặn nguy cơ tăng trưởng nóng và kiểm soát được lạm phát. Trong năm 2010, cần sử dụng lãi suất cơ bản (theo đó là trần lãi suất cho vay) như một công cụ quyết định để kiểm soát tổng tín dụng, thị trường tín dụng ngân hàng (huy động tiền gửi và cho vay) và cả thị trường liên ngân hàng theo đúng các nguyên tắc thị trường.

Ðể đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng, nhất là kiểm soát nhập siêu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo đảm các cân đối cán cân thương mại, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán tổng thể, cân đối tiết kiệm đầu tư, cân đối tích lũy tiêu dùng và quản lý nợ nước ngoài thì chính sách tỷ giá hối đoái giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Dự kiến với các sức ép mất cân đối kinh tế giữa trong và ngoài nước, năm 2010, giảm giá VND là tất yếu song mức độ và thời điểm điều chỉnh giảm cần đồng bộ với chính sách quản lý ngoại hối và chính sách thương mại, bảo đảm không tạo ra các cú sốc đối với ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời, không quá kỳ vọng vào việc giải quyết ngay những mất cân đối vĩ mô đã tích tụ trong khoảng năm năm gần đây, nhất là chỉ thông qua công cụ đơn độc như điều chỉnh tỷ giá hối đoái.

 

(Theo Hoài Thu // Vneconomy)

  • Nhìn lại thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm và dự báo
  • Việt Nam: Nghịch lý ngân hàng sống nhờ “bầu sữa” ngân sách
  • Ngân hàng làm gì với thế hệ Y?
  • Thế hệ Y và cuộc cách mạng trong ngân hàng bán lẻ
  • Nguy cơ nợ công Việt Nam thực sự nằm ở đâu?
  • Việt Nam đứng thứ 12 trong Top 25 quốc gia đáng đầu tư nhất năm 2010
  • Kinh nghiệm cho Việt Nam: “Mổ xẻ” gói kích cầu để nhìn về tương lai
  • Tình trạng ngoại tệ hóa và cuộc chiến bảo vệ giá trị Việt Nam Đồng
  • Rốt ráo tất toán tài khoản vàng
  • Sàn vàng khó tìm hướng mới
  • Ngành chế tác Vàng trang sức VN : Yếu sức cạnh tranh
  • Trung Quốc trở thành thị trường đầu tư bất động sản lớn nhất thế giới
  • Khủng hoảng tài chính ở Hy Lạp: Nguyên nhân là bệnh thành tích
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!