“Sẽ bơm tiền ra, rút tiền về một cách hợp lý”
( NGUYỄN HOÀI // Vneconomy)
Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phải điều hành chính sách tiền tệ theo hướng giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường nhưng nếu các chủ thể không cùng chia sẻ lợi ích, chẳng hạn, tổ chức kinh tế vẫn mặc cả giá vốn với ngân hàng thì liệu thị trường có được bình ổn?
![]() |
Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước. |
Xung quanh vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước).
Mới đây Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước phải điều hành theo hướng “giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường”. Ngân hàng Nhà nước xử lý vấn đề này như thế nào?
Tại Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 6/4/2010, Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước: “Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển và điều kiện thực tế của thị trường tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất để giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường”.
Điều này được hiểu, Chính phủ mong muốn tăng khả năng tiếp cận vốn ở mức hợp lý của doanh nghiệp, hộ sản xuất và các tầng lớp dân cư từ hệ thống ngân hàng, nhằm góp phần thực hiện thành công 3 mục tiêu mà Nghị quyết 18 đã đề ra là “ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010”.
Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm ổn định thị trường nhưng không ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các chủ thể tham gia trên thị trường.
Chẳng hạn, bơm tiền ra - rút tiền về một cách hợp lý; sử dụng vai trò chủ đạo, điều tiết của các ngân hàng thương mại nhà nước; xử lý các vấn đề liên quan đến hỗ trợ thanh khoản trong hệ thống, nhất là đối với các ngân hàng thương mại quy mô nhỏ.
Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện nắm giữ một lượng tiền đồng rất lớn, họ phải hành động như thế nào để thể hiện trách nhiệm “đầu tàu” đối với nền kinh tế thay vì đi mặc cả giá vốn với ngân hàng?
Tôi cho rằng, trước mắt, các tập đoàn và tổng công ty phải tận dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để hỗ trợ cho các thành viên để giảm chi phí vay vốn ngân hàng. Mặt khác, họ phải có trách nhiệm góp phần ổn định thị trường tiền tệ bằng cách không mặc cả giá vốn với ngân hàng và không dịch chuyển nguồn vốn này trên thị trường với các kỳ hạn ngắn từ 1 đến 2 tuần, hạn chế thấp nhất việc gây nên những xáo trộn không đáng có.
Vậy còn vai trò “nhà tạo lập thị trường” của nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước thì phải như thế nào, thưa ông?
Trước hết, họ phải thực hiện cơ chế lãi suất theo nguyên tắc thị trường, hài hòa lợi ích của chính mình với bên gửi tiền và bên vay tiền. Kèm theo đó là các sản phẩm, dịch vụ, tiện ích có lợi để thu hút người gửi tiền nhiều hơn.
Mặt khác, khi có hiện tượng dịch chuyển tiền gửi quá lớn của các tổ chức kinh tế nhà nước trong trường hợp họ không thực hiện đúng chỉ đạo tại Nghị quyết số 18 về việc góp phần bình ổn kinh tế vĩ mô, phải thông báo kịp thời với các cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý cụ thể.
Cũng có ý kiến cho rằng, rất có thể khi nhóm ngân hàng thương mại nhà nước tiên phong giảm lãi suất huy động nhưng bên gửi tiền sẽ rút tiền ở các ngân hàng này, gửi sang ngân hàng khác có mức lãi suất cao hơn, gây nên hiện tượng “vốn chạy lòng vòng” như năm 2008 nhưng điều này là không đáng lo.
Bởi lẽ, về nguyên tắc, lãi suất có thể được điều chỉnh giảm nhưng sẽ không có sự xáo trộn. Bởi vì, mọi sự điều chỉnh giá vốn đều phải dựa trên quan hệ cung cầu vốn.
Cùng đó thì Hiệp hội Ngân hàng nên làm gì?
Hiệp hội phải cùng với các thành viên thống nhất tạo ra một mức lãi suất chuẩn trên thị trường, định giá chuẩn các tài sản, để các thành viên hoạt động xung quanh mức lãi suất đó. Làm sao đó để cân bằng được lợi ích của các chủ thể khi tham gia thị trường tiền tệ cũng như góp phần bình ổn thị trường.
Phổ biến hiện nay ở các ngân hàng thương mại là sử dụng hình thức khuyến mại do Bộ Công Thương cấp phép để “lách luật”, đẩy lãi suất huy động lên cao, xử lý tình trạng này nên như thế nào, thưa ông?
Có một số trường hợp Bộ Công Thương cấp giấy phép khuyến mại cho các ngân hàng thương mại nhưng không giám sát chặt chẽ việc thực hiện, dẫn đến hiện tượng lợi dụng khuyến mại cạnh tranh thiếu lành mạnh, tạo nên sự xáo trộn trên thị trường.
Vì thế, Bộ Công Thương cần tăng cường giám sát chặt chẽ hơn nữa, nếu phát hiện vi phạm phải xử phạt hành chính và/hoặc áp dụng các hình thức xử lý nghiêm khắc khác, góp phần chung tay với Ngân hàng Nhà nước ổn định thị trường tiền tệ.
Theo ông, chênh lệch giữa “ra - vào” qua ngân hàng thì ở mức nào là hợp lý?
Theo thông lệ thị trường thì mức chênh lệch trên ở vào khoảng 3%/năm - 5%/năm. Và hiện nay, lãi suất đầu vào của các ngân hàng thương mại khoảng 11%/năm - 11,5%/năm bao gồm cả khuyến mại là phù hợp.
Hiện tại, có nhiều mối quan tâm đến việc Ngân hàng Nhà nước cho phép ngân hàng thương mại thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với cho vay ngắn hạn, bao giờ Ngân hàng Nhà nước ban hành văn bản này?
Ngân hàng Nhà nước đang trao đổi với Bộ Tư pháp để ban hành văn bản này càng sớm, càng tốt và có thể trong tuần này chúng tôi sẽ hoàn tất.
Ngân hàng chạy đua tăng vốn
( Thủy Triều // TBKTSG )
![]() |
Khách hàng giao dịch tại hội sở Sacombank, ngân hàng đang có kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 6.700 tỉ đồng lên 9.179 tỉ đồng trong năm nay. Ảnh: Hoài Nam. |
Mùa đại hội cổ đông đang diễn ra, đến hẹn lại lên các ngân hàng đồng loạt trình cổ đông phương án tăng vốn điều lệ trong năm nay. Với ngân hàng lớn thì áp lực phải tăng vốn là không lớn nhưng với các ngân hàng nhỏ, vốn điều lệ chỉ ở quanh mức 1.000 tỉ đồng, lại là một gánh nặng khá lớn vì đến cuối năm nay các ngân hàng này phải đảm bảo mức vốn 3.000 tỉ đồng theo quy định của Chính phủ.
Ngân hàng lớn: tăng vốn để củng cố hoạt động
Những ngân hàng lớn có tiềm lực tài chính khá tốt như Sacombank, ACB, Techcombank… cũng như các ngân hàng có vốn điều lệ đã đạt quy định vẫn muốn tiếp tục tăng vốn điều lệ trong năm nay để tăng cường nội lực cũng như hỗ trợ việc mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
Ngân hàng Sacombank hiện có mức vốn điều lệ là 6.700 tỉ đồng. Tuy nhiên, theo hội đồng quản trị ngân hàng này thì mức vốn chủ sở hữu hiện tại của ngân hàng cũng còn khiêm tốn so với các ngân hàng bạn, nhất là trong giai đoạn đang đẩy mạnh cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh và mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài vào. Do vậy, việc tăng vốn điều lệ theo kịp đà tăng trưởng của Sacombank là một đòi hỏi cấp thiết, đại diện Sacombank cho biết.
Vì thế, Sacombank đưa ra kế hoạch tăng vốn khá mạnh từ 6.700 tỉ lên 9.179 tỉ đồng trong năm nay, trong đó gồm có trả cổ tức cho cổ đông 15% bằng cổ phiếu, phát hành thêm cổ phiếu tỷ lệ 10:2 cho cổ đông hiện hữu với giá 12.000 đồng/cổ phần, và phát hành thêm 2% cổ phần cho cán bộ ngân hàng.
Cũng có kế hoạch tăng vốn mạnh không kém Sacombank, ACB dự kiến trình đại hội cổ đông kế hoạch tăng thêm 1.563 tỉ đồng vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu với tỷ lệ 5:1 cho cổ đông hiện hữu. Các ngân hàng khác như Techcombank và Đông Á đều có kế hoạch tăng thêm từ 1.000-2.500 tỉ đồng vốn điều lệ trong năm nay.
Do đây là các ngân hàng đã niêm yết cũng như là những ngân hàng cổ phần hàng đầu nên việc phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu với giá không thấp hơn giá trị sổ sách cũng được xem là khả thi vì cổ đông không muốn có thể đem lên sàn để bán. Vì vậy, hầu hết các phương án phát hành thêm của những ngân hàng này đều không bị cổ đông chất vấn quá nhiều.
Ngân hàng nhỏ: xoay đủ cách
Trong khi đó, việc phát hành thêm cổ phần để đạt mức vốn điều lệ theo quy định là 3.000 tỉ đồng vào cuối năm nay lại là vấn đề khá căng thẳng của những ngân hàng nhỏ. Để có thể thực hiện thành công kế hoạch tăng vốn, lãnh đạo các ngân hàng này phải thuyết phục được các cổ đông tổ chức lớn tiếp tục bỏ thêm tiền vào, sau đó là thuyết phục các cổ đông nhỏ lẻ trong đại hội cổ đông chấp thuận phương án phát hành thêm của mình.
Nhưng các cổ đông nhỏ chắc chắn sẽ phải cân nhắc vấn đề lợi nhuận là nên bỏ thêm tiền vào cho các ngân hàng nâng vốn điều lệ hay chỉ đơn giản mua cổ phiếu của các ngân hàng lớn đang niêm yết trên sàn với giá không quá cao, lại cũng có thể được mua thêm cổ phiếu phát hành thêm trong năm nay. Chỉ những cổ đông nhỏ nào tâm huyết với ngân hàng nhỏ thì có thể tiếp tục bỏ vốn đầu tư vào ngân hàng này.
Ông Hoàng Văn Toàn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Đại Tín, cho biết ban lãnh đạo ngân hàng cần phải cho cổ đông biết rõ ngân hàng đang trong quá trình xây dựng cơ bản, tích lũy vì thế cổ đông không thể đòi hỏi có lãi lớn để chia ngay trong năm nay. Tuy nhiên, ngân hàng cũng sẽ không để cổ đông phải chịu đựng thiệt thòi quá mức mà ít nhất cũng phải duy trì mức cổ tức bằng lợi tức gửi tiết kiệm. “Đầu tư giai đoạn này là mua sự kỳ vọng, vì thế cần cho đối tác lẫn các cổ đông thấy được tiềm năng của ngân hàng trong tương lai”, ông Toàn nói.
Đại Tín vừa tăng vốn từ 1.252 tỉ đồng lên 2.000 tỉ đồng vào ngày 19-3, và theo kế hoạch sẽ tiếp tục phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu để đạt mức vốn 3.000 tỉ đồng vào cuối năm.
Không tự tin như ông Toàn, tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần có vốn điều lệ vừa tăng lên 1.800 tỉ cho biết ngân hàng đang tích cực đàm phán với đối tác nước ngoài để bán cổ phần và tăng vốn điều lệ cho đủ mức vốn pháp định vào cuối năm. “Phải tìm cổ đông nước ngoài chứ chỉ trong nước không thì khó tăng nổi, nhất là khi cổ phiếu các ngân hàng không còn hấp dẫn nữa”, ông nói.
Lãnh đạo một ngân hàng khác thì cho biết tìm cổ đông tổ chức trong nước chịu mua thêm cổ phiếu ngân hàng với giá bằng mệnh giá không khó, nhưng để tìm đối tác hợp ý, cùng chí hướng để đảm bảo cho ngân hàng phát triển ổn định lâu dài thì không phải dễ.
Theo phòng phân tích của Công ty Chứng khoán Thành Công (TCSC), việc mua thêm cổ phiếu của các ngân hàng phát hành thêm sẽ không có lợi cho nhà đầu tư trong thời gian trước mắt. “Việc các ngân hàng nhỏ tăng vốn trong năm nay sẽ có ảnh hưởng đến cổ đông do vốn bị pha loãng quá mạnh”, công ty này nhận định.
Trong khi vốn điều lệ của nhiều ngân hàng nhỏ tăng hơn hai lần, lợi nhuận của các ngân hàng này khó theo kịp với triển vọng khó khăn của nền kinh tế như năm nay. Tác động pha loãng là hiển hiện trước mắt chưa kể liệu các cổ đông nhỏ có đủ vốn để tham gia vào cuộc chơi đóng tiếp phần vốn vào ngân hàng.
Theo TCSC, việc chọn lựa góp vốn vào ngân hàng nhỏ theo mệnh giá cần phải xem xét thêm vấn đề là giá một số cổ phiếu của một số ngân hàng hiện đang ở thấp hơn so với mệnh giá. Do đó, việc góp vốn sẽ thiệt thòi. Hoặc giá cổ phiếu của nhiều ngân hàng nhỏ hiện nay chỉ cao hơn đôi chút so với mệnh giá nên việc tăng vốn mạnh có thể khiến cho nhà đầu tư đánh giá lại cổ phiếu và giá sau này có thể về dưới 10.000 đồng.
Trong khi đó nếu nhà đầu tư mua các cổ phiếu lớn trên sàn sẽ khó gặp phải rủi ro pha loãng cổ phiếu quá lớn vì tất cả các cổ phiếu ngân hàng niêm yết đều có vốn điều lệ trên 3.000 tỉ đồng trong khi các ngân hàng nhỏ lại có mức tăng vốn quá lớn khiến mức độ pha loãng cao, lợi nhuận khó tăng trưởng kịp và không hấp dẫn, TCSC cho biết.
Doanh nghiệp kêu gào vì lãi suất quá cao
(Vietnamnet//theo TBKTSG)
Trong buổi họp giữa UBND TP.HCM với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và đại diện Bộ Tài chính ngày 10/4, đại diện doanh nghiệp và các hiệp hội ngành đã phản ánh về việc phải vay vốn với lãi suất quá cao từ ngân hàng khiến hoạt động của doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn.
![]() |
Nhiều ngân hàng đã cam kết giảm lãi suất cho vay. Ảnh: VNN |
Tại buổi họp, nhiều doanh nghiệp đã than với Thống đốc NHNN rằng hiện đang phải vay vốn ngân hàng với mức lãi suất từ 16%-18%. Ông Nguyễn Văn Minh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM, cho biết hiện bình quân lãi suất huy động của các ngân hàng là 13%-14%/năm cho nên lãi suất cho vay của ngân hàng đa số là 18%, cá biệt có ngân hàng 20%, còn 16%năm thì rất ít ngân hàng cho vay.
“Muốn trả được lãi suất trên thì doanh nghiệp phải có lợi nhuận từ 25%/năm trở lên, và ngành sản xuất thì không thể đảm bảo được mức lợi nhuận đó”, ông Minh nói.
Ông Minh kiến nghị nếu NHNN cho phép ngân hàng áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận thì nên có biện pháp để tránh lãi suất thỏa thuận cào bằng, tức là doanh nghiệp nào cũng như nhau.
Ông cho rằng ngân hàng nên có quy định riêng đối với cho vay doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp, cũng như doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bà Lý Kim Chi, Phó chủ tịch Hiệp hội lương thực, thực phẩm TP.HCM, cho biết 80% doanh nghiệp trong ngành này tại TPHCM là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì thế tiếp cận được vốn ngân hàng là điều cực kỳ khó.
“Các doanh nghiệp trong hiệp hội cho biết đến hạn phải đi trả nợ cho ngân hàng nhưng vay lại thì không thể nào vay được ở mức 12%/năm, đều phải trả thêm những khoản phí khác, kéo lãi vay lên đến 18%/năm. Mức này không thể nào chịu đựng nổi”, bà Chi nói.
Vị này cũng cho biết sáu tháng vừa qua các doanh nghiệp đang hoạt động rất cầm chừng, và nếu không giảm lãi suất ngân hàng, doanh nghiệp trong nước sẽ không thể nào cạnh tranh nổi với doanh nghiệp nước ngoài chuyên nhập khẩu các mặt hàng cùng loại.
Tương tự ý kiến của các doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó chủ tịch UBND TPHCM, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay ngắn hạn và bỏ trần lãi suất huy động.
“Để có thêm nguồn vốn với lãi suất thấp và giảm chi phí vốn cho các ngân hàng, góp phần giảm lãi suất cho vay ra nền kinh tế, đề nghị NHNN xem xét cân đối, có cơ cấu hợp lý nhằm giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và hỗ trợ cho ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở”, bà Hồng nói.
Các ngân hàng đồng thuận giảm lãi suất
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu trong buổi họp đã thông báo một số ngân hàng lớn đã đồng thuận giảm lãi suất xuống phổ biến chỉ còn 14%-15%/năm, tương đương mức lãi suất năm 2007. Mức trên dù vẫn còn cao nhưng đã phần nào thấp hơn so với mức lãi suất từ 16%-18% mà doanh nghiệp đang gánh hiện nay.
Ông cũng cho biết Thủ tướng đã cho phép NHNN hướng dẫn các ngân hàng áp dụng lãi suất thỏa thuận đối với cho vay các dự án khả thi.
Thời gian tới, theo Nghị quyết 18/NQ-CP của Chính phủ, NHNN cũng sẽ chỉ đạo các ngân hàng thương mại theo hướng tập trung ngoại tệ cho vay đối với những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được cũng như hạn chế cho vay ngoại tệ để nhập khẩu những mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu.
“Chúng tôi đang chờ Bộ Công Thương đưa ra danh mục các mặt hàng thiết yếu được ưu tiên tiếp cận vốn ngoại tệ, hy vọng đầu tuần sau sẽ có, và tôi sẽ lập tức chỉ đạo các ngân hàng thương mại cho vay cũng như hạn chế cho vay đối với các mặt hàng được quy định”, ông Giàu nói.
Ông Giàu nói nghị quyết Chính phủ yêu cầu tăng trưởng tín dụng năm 2010 là 25%, vì vậy từ đây đến cuối năm, NHNN sẽ chỉ đạo các ngân hàng để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả hệ thống khoảng 2,2%-2,3%/tháng.
Về tình hình huy động của các ngân hàng, mức tăng trưởng huy động quí 1 là 3,8%, theo ông Giàu là khả quan. “Đặc biệt tiền gửi dân cư tăng 9,2%, đây là mức tăng cao nhất từ trước đến nay”, ông nói.
Doanh nghiệp điêu đứng với lãi suất 'cắt cổ'
(Vietnamnet//theo TBKTSG)
Nhiều doanh nghiệp đang lắc đầu trước các mức lãi suất cho vay quá cao mà ngân hàng đưa ra, khiến tín dụng của nhiều ngân hàng trong quý I gần như không tăng nổi.
Doanh nghiệp quay lưng
Hiện nay, nhiều ngân hàng đã đưa lãi suất cho vay trung dài hạn lên đến mức 18-19%/năm, mức mà khó có doanh nghiệp nào chấp nhận được. Ông Hồ Hữu Hạnh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM, cho biết nhiều doanh nghiệp đang phản ứng rằng lãi suất cho vay của ngân hàng quá cao khiến doanh nghiệp không muốn vay.
![]() |
Lãi suất cho vay hiện quá cao. (Ảnh: VNN) |
Ông Huỳnh Quang Thanh, Tổng giám đốc Công ty TNHH Hiệp Long, than thở: “Với mức lãi suất hiện nay các nhà sản xuất không thể chịu nổi. Mức lãi suất cao này chỉ có doanh nghiệp thương mại quay vòng vốn nhanh mới chịu vay thôi. Từ lúc ngân hàng nâng lãi suất lên 15%/năm, tôi đã trả hết nợ và không vay nữa”.
Ông Thanh cho hay, thông thường mức lãi suất mà các doanh nghiệp như ông có thể làm ăn được là dưới 10%/năm, mức dưới 12% là có thể chấp nhận được nhưng hạn chế vay chừng nào tốt chừng ấy.
“Kinh tế thế giới chỉ mới có dấu hiệu hồi phục, còn bấp bênh lắm, nên các doanh nghiệp cũng không mặn mà đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngày xưa mỗi lần ký hợp đồng là ký luôn một năm, giờ tôi chỉ dám ký mỗi sáu tháng, không dám liều nữa”, ông nói.
Ông Trần Quốc Mạnh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Phát triển Sản xuất Thương mại Sài Gòn, cho biết hiện nay các ngân hàng đang cho vay với lãi suất 17-18%/năm cho các khoản vay trung dài hạn thì doanh nghiệp không chịu nổi, trong khi cho vay ngắn hạn với lãi suất 12% thì rất nhỏ giọt.
“Với cơ chế lãi suất như thế, hiện đang có một lực cản nguồn vốn ngân hàng đến được với doanh nghiệp”, ông nói.
Ông Mạnh cho biết, các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng rất khó khăn, phải huy động hết nguồn vốn bên ngoài như người thân, bạn bè… để chống đỡ, nhưng nếu Chính phủ không làm gì để cải thiện tình trạng lãi suất hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên điêu đứng.
“Xăng, điện, sắt thép, nguyên liệu đầu vào, lãi suất ngân hàng đều tăng, trong khi giá thành sản phẩm bán ra thị trường nước ngoài không thể điều chỉnh tăng mạnh một lần. Trong khi đó, lãi suất vay quá cao khiến nhiều dự án sản xuất của doanh nghiệp không thể thực hiện được, doanh nghiệp không thể đầu tư hiện đại hóa sản xuất, sẽ dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới”, ông Mạnh nói thêm.
Ngân hàng cũng than khó
Tăng trưởng tín dụng của toàn địa bàn TPHCM, nơi chiếm thị phần cho vay khoảng 1/3 cả nước, trong ba tháng đầu năm chỉ là 0,37% với lý do được khá nhiều ngân hàng đồng tình là doanh nghiệp đang e ngại vay vốn với lãi suất như hiện nay.
Ông Huỳnh Song Hào, Phó Giám đốc Vietcombank chi nhánh TP.HCM, cho biết trong quý I năm nay, mức tăng tín dụng của ngân hàng ông không được khả quan, lý do là các doanh nghiệp cảm thấy không đảm bảo được hiệu quả sản xuất kinh doanh với mức lãi suất hiện nay.
Lý giải việc tăng trưởng tín dụng chậm, bà Nguyễn Thị Ngọc Vân, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Á, cho biết trong các tháng đầu năm, lãi suất ngân hàng không được ổn định do Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn nên các doanh nghiệp cũng tỏ ra khá chần chừ và có tâm lý chờ xem tình hình thế nào rồi mới vay.
Bà Vân cũng thừa nhận rằng năm nay là năm rất khó cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất. “Năm 2009, doanh nghiệp được hỗ trợ lãi suất 4%. Năm nay, vừa không được hỗ trợ lãi suất, lại còn phải gánh thêm phần lãi suất cho vay tăng cao nên nhiều doanh nghiệp rất cẩn trọng khi vay vốn ngân hàng”, bà Vân nói.
Để hỗ trợ khách hàng, một số ngân hàng đã hướng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sang vay đô la Mỹ, lãi suất hiện chỉ khoảng 6-7%/năm. Vì thế, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ của các ngân hàng trong quý I tăng mạnh đến 7,2% so với cuối năm 2009, trong khi cho vay bằng đồng Việt Nam lại giảm 1,81%.
Ông Đỗ Minh Toàn, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB), cho biết thực tế trong hai tháng đầu năm nay dư nợ của ngân hàng ông có giảm chút ít và chỉ vừa tăng khá trở lại vào hai tuần cuối tháng 3.
Ông Toàn giải thích nguyên nhân là do năm nay, kỳ nghỉ Tết khá dài nên các ngân hàng không cho vay được nhiều cũng như thông tin kinh tế vĩ mô các tháng đầu năm không mấy thuận lợi khiến các doanh nghiệp e ngại khi triển khai các hoạt động kinh doanh.
“Tuy nhiên, hiện nay thị trường đã ổn định phần nào, và trong các tháng tới ACB sẽ đẩy mạnh nhiều chương trình cho vay đối với các doanh nghiệp. Tháng 4 và 5, tăng trưởng tín dụng của ACB dự báo sẽ khá hơn nhiều so với tháng 3”, ông Toàn nói.
Ông Toàn cũng dự báo lãi suất ngân hàng thời gian tới có thể sẽ hạ nhiệt. “Lãi suất liên ngân hàng trong thời gian gần đây đã có tín hiệu giảm xuống phần nào cho thấy xu hướng ổn định của mặt bằng lãi suất thời gian tới. Nếu Ngân hàng Nhà nước có cơ chế quản lý tốt, lãi suất ngân hàng sẽ giảm dần”, ông nói.
Ông Hồ Hữu Hạnh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM, cũng cho rằng theo cơ chế thị trường, nếu các doanh nghiệp không chấp nhận vay với mức lãi suất như hiện nay, chắc chắn ngân hàng sẽ phải giảm lãi suất trong thời gian tới.
Người vay tiêu dùng khó vì lãi suất cao
(Theo Minh Thúy //Vietnam+)
Người vay tiêu dùng hiện đang khốn đốn vì lãi suất cao, phổ biến ở mức 16 - 21% và điều kiện cho vay ngặt nghèo.
Một số công ty tài chính có “cửa" vay thông thoáng hơn thì lãi suất lên tới… trên 30%, và không phải khách hàng nào cũng đủ điều kiện tiếp cận vốn.
Trong khi đó, các ngân hàng lại đang tích cực rà soát các khoản vay cùng với tăng thêm các điều kiện ngặt nghèo hơn.
Chóng mặt vì lãi cao, điều kiện khó
Gia đình chị Nguyễn Mai Phương đang sửa nhà nhưng thiếu khoảng 30 triệu đồng, nên chị quyết định vay ngân hàng để trả dần bằng lương. Khi đến Sở giao dịch Vietcombank Hà Nội để hỏi vay thì chị mới hay là điều kiện của mình không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng này.
Nhân viên ngân hàng cho biết chị chỉ đáp ứng được một yêu cầu của ngân hàng là lương đã được trả qua thẻ của Vietcombank. Đã vậy, thu nhập của chị chỉ là 5 triệu đồng/tháng nên ngân hàng không thể cho chị vay vì theo quy định của ngân hàng, khách hàng phải có mức thu nhập từ 6 triệu đồng trở lên mới được vay.
Nhờ người quen mách, chị Hương lại chạy sang Ngân hàng Quốc tế (VIB) chi nhánh Long Biên. Tại đây, chị cũng nhận được câu trả lời là trường hợp của chị khó có thể vay được. Lý do đưa ra là trong một công ty phải có từ 10 người trở lên vay tiền thì nhân viên ngân hàng mới đến làm thủ tục. Hơn nữa, phải có chữ chữ ký của người quản lý trực tiếp thì ngân hàng mới cho vay.
“Mình chỉ vay có mấy chục triệu mà phải cầu cạnh đến sếp thì phiền quá, với lại, công ty chỉ có mình tôi muốn vay thôi chứ kiếm đâu ra 10 người bây giờ,” chị Phương than thở.
Một trường hợp khác là anh Lê Văn Thành ở Long Biên - Hà Nội cũng định vay tiền ngân hàng để mua một mảnh đất. Đến tìm hiểu thông tin của Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) - một trong những nơi có lãi suất hấp dẫn, anh được nhân viên tư vấn tài chính cá nhân nói là có thể vay 1 tỷ đồng theo hình thức vay thế chấp vì đáp ứng được đủ các điều kiện như tổng thu nhập hàng tháng của hai vợ chồng là gần 30 triệu đồng. Ngoài ra, anh Thành còn được bố mẹ cho mượn sổ đỏ để thế chấp căn nhà trị giá 3,5 tỷ đồng.
Chưa kịp vui mừng vì đủ điều kiện vay tiền, anh Thành lại gặp nỗi lo mới khi được thông báo lãi suất vay lên tới 1,75%/tháng (tương đương 21%/năm) tính theo dư nợ giảm dần. Anh Thành ngao ngán: “Lãi suất cao thế này thì đi làm chỉ đủ ‘kéo cày trả nợ’ ngân hàng.”
Dẫu sau, anh Thành còn được xếp vào hàng may mắn khi được ngân hàng xem xét đến. Nhiều người tiêu dùng khác không đáp ứng được điều kiện của ngân hàng đã phải tìm đến công ty tài chính như Prudential với lãi suất vay cao “chót vót”, đến 34%/năm.
Nhà băng chủ trương “đóng”
Một số ngân hàng cho biết hiện không chủ trương phát triển mạnh cho vay tín chấp vì nhiều lẽ, trong đó có chuyện rủi ro cao, khó quản lý vì khách hàng hầu hết vay món nhỏ.
Anh Bách Hợp, nhân viên thu hồi nợ một công ty tài chính tại Hà Nội, cho biết nhiều khách hàng có kế hoạch vay để "quỵt" nợ. Anh kể, một nữ khách hàng ở Tập thể Nam Đồng vay 20 triệu đồng và đã hơn ba tháng chưa thanh toán gốc và lãi hàng tháng. Gọi điện thoại thì di động tắt máy, điện thoại bàn thì người nhà bảo chưa về. Công ty cho nhân viên đến tận nhà, khi gặp được thì cô ấy bảo là chưa bao giờ vay. Phải mất hàng tháng trời điều tra, cuối cùng mới biết cô này đã có chủ đích "quỵt" nợ ngay từ đầu.
Chính vì vậy, mặc dù có ngân hàng vẫn triển khai cho vay tiêu dùng, nhưng điều kiện lại ngặt nghèo hơn trước. Nhân viên tín dụng của một ngân hàng cho hay trước đây ngân hàng này chỉ yêu cầu người vay có hộ khẩu hoặc KT3, thu nhập hàng tháng từ 3 triệu đồng, có chỗ làm ổn định một năm trở lên và có điện thoại cố định. Thế nhưng, hiện nay các ngân hàng đều nâng mức thu nhập đủ điều kiện vay lên thành 5 triệu đồng/tháng trở lên, không được ở nhà thuê, kể cả trường hợp có nhà nhưng đã cho thuê và đi thuê lại nhà khác để ở. Nhân viên này cho biết, do hình thức cho vay tín chấp rất rủi ro và lượng khách hàng vay vốn theo dạng này ngày một nhiều nên ngân hàng phải tăng thêm điều kiện để “thanh lọc”.
"Chắc ăn" hơn, Techcombank đã ngưng cho vay tín chấp từ tháng 5/2009 và hiện chỉ còn cho vay tín chấp theo hình thức trả lương qua tài khoản của Techcombank. Nếu khách hàng có nhu cầu vay thì phải vay qua ngân hàng bằng việc thế chấp sổ đỏ, đăng ký ô tô hoặc sổ tiết kiệm.
Một số ngân hàng khác như Đông Á Bank, MHB dù không thông báo nhưng chỉ xét cho vay với rất ít trường hợp, còn lại từ chối giải ngân.
Về phía khách hàng đi vay, nhiều người cho rằng nhiều thủ tục như vậy thì họ rất khó tiếp cận vốn ngân hàng, ô tô thì không phải ai cũng có, nhà ở thì có nhưng chưa chắc đã có sổ đỏ.
Lãnh đạo Ngân hàng An Bình phân tích: “Nguyên nhân các ngân hàng siết chặt cho vay tiêu dùng là vì tính thanh khoản trên thị trường. Trong khi đó, lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm đang quá sát nhau nên gần như các ngân hàng không có lãi. Do đó, ngân hàng phải kiểm soát nguồn vốn cho vay tiêu dùng vì mức rủi ro cao.”
Các ngân hàng khác cũng cho biết, từ cuối năm 2009, sau khi Ngân hàng Nhà nước tuyên bố cụ thể về kế hoạch thanh kiểm tra chất lượng tín dụng, cho vay hỗ trợ lãi suất, hoạt động cho vay tín chấp tiêu dùng đã “xìu” hẳn. Thay vào đó, các ngân hàng chuyển hướng sang cho vay tiêu dùng có thế chấp, chủ yếu là cho vay mua nhà, xây sửa nhà... nhưng với lãi suất thỏa thuận.
Với mặt bằng lãi suất huy động 10,5%, cộng với chi phí khuyến mãi trên dưới 1%, các ngân hàng thường áp lãi suất vay tiêu dùng với mức cao nhất 16-18% sau khi tính đủ chi phí và dư địa lợi nhuận cho mình. Cá biệt, có nơi đẩy lãi lên trên 20% khiến những người có ý định vay tiêu dùng cá nhân phải cân nhắc kỹ.
Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần lý giải sở dĩ lãi suất cho vay tiêu dùng cao là bởi có rủi ro cao. Hơn nữa, chi phí ngân hàng phải bỏ ra trong quá trình cung cấp dịch vụ này cũng cao hơn nhiều so với cho vay doanh nghiệp. “Nhân viên tín dụng vẫn phải thẩm định từng hồ sơ vay vốn. Trong khi, một dự án vay của doanh nghiệp giá trị có thể lên tới hàng chục tỷ đồng, nhưng vay tiêu dùng chỉ vài chục đến vài trăm triệu đồng,” ông này nói.
Một chuyên gia tài chính ngân hàng thi cho rằng dù mức tăng dư nợ cho vay tiêu dùng vẫn thấp hơn so với tăng trưởng tín dụng chung toàn hệ thống, nhưng nếu không có biện pháp quản lý chặt sẽ rất nguy hiểm vì tạo ra vòng luẩn quẩn. Khách hàng thế chấp nhà vay tiền mua chứng khoán rồi lại thế chấp chứng khoán vay tiền, như vậy sẽ rủi ro cho ngân hàng và cho cả nền kinh tế.
( Tinkinhte.com tổng hợp)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com