Dự án thủy điện nếu không được tính toán nhiều mặt sẽ "lợi bất cập hại". Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)
Việt Nam là nước có tiềm năng thủy điện khá lớn, tập trung ở vùng Tây Bắc, miền Trung và Tây Nguyên do đó việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, việc phát triển quá “nóng” các dự án thủy điện vừa và nhỏ đang dấy lên sự lo ngại trước nguy cơ phá vỡ quy hoạch và gây những thiệt hại nghiêm trọng mà hạ lưu phải gánh chịu.
Trong Báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về kết quả kiểm tra, đánh giá về quy hoạch, đầu tư và vận hành các dự án thủy điện, Bộ Công Thương đã đề xuất loại bỏ gần 40 dự án đã phê duyệt quy hoạch do không phù hợp với điều kiện thực tế, không đảm bảo hiệu quả đầu tư, ảnh hưởng lớn đến môi trường-xã hội và không có nhà đầu tư quan tâm.
Động thái này như một hồi chuông gióng lên trước làn sóng đầu tư thủy điện vừa và nhỏ.
Nảy sinh nhiều vấn đề
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về đa dạng hóa các thành phần kinh tế và hình thức đầu tư các dự án thủy điện vừa và nhỏ có công suất đến 30 MW, đến nay, Bộ Công Thương đã thỏa thuận, phê duyệt; bổ sung, điều chỉnh Quy hoạch các dự án thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn 35 tỉnh, thành phố với hơn 880 dự án, tổng công suất lắp máy hơn 5.880MW (công suất trung bình 6,7 MW/dự án).
Số dự án tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Nam, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Thanh Hóa; trong đó, tỉnh Lào Cai là nơi có số dự ánnhiều nhất với gần 110 dự án.
So với Quy hoạch thủy điện nhỏ toàn quốc ban đầu được Bộ Công nghiệp - nay là Bộ Công Thương - phê duyệt ngày 18/10/2005 trên địa bàn 24 tỉnh, thành phố, số dự án đã “vọt” lên hơn 540 dự án và tổng công suất lắp máy cũng tăng gần 4.360MW.
Chủ trương phát triển thủy điện nhỏ - nguồn năng lượng có khả năng tái tạo, giá thành rẻ hơn các nguồn điện khác - là hợp lý, được ưu tiên trong các chiến lược và chính sách phát triển năng lượng đã được Chính phủ phê duyệt.
Tuy nhiên, do phát triển quá “nóng” nên việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện vừa và nhỏ thời gian qua đã bộc lộ một số tồn tại phải giải quyế như thiếu kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch nên Ủy ban Nhân dân các tỉnh đã dễ dàng trong việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư, cũng như chấp thuận chủ trương nghiên cứu đầu tư các dự án thủy điện khiến Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ của tỉnh thường xuyên phải điều chỉnh, bổ sung.
Thực tế triển khai cũng cho thấy Ủy ban Nhân dân một số tỉnh chưa chú ý nhiều đến các yếu tố về xã hội, môi trường, phụ tải, hệ thống đấu nối điện, năng lực và kinh nghiệm của các nhà đầu tư… mà chỉ chú trọng đến yếu tố về kinh tế nên cấp phép đầu tư cho quá nhiều dự án, thậm chí cả những dự án không có trong quy hoạch và sau này phải kiến nghị bổ sung, điều chỉnh.
Trong khi đó, trong quá trình thẩm định, Bộ Công Thương đều lưu ý các tỉnh kiểm tra, xem xét kỹ sự phù hợp của quy hoạch thủy điện nhỏ với các quy hoạch khác trên địa bàn như phát triển kinh tế-xã hội, sử dụng đất, sử dụng nguồn nước, ảnh hưởng tới rừng, an ninh quốc phòng, môi trường… Đặc biệt, là tiến độ đầu tư các dự án phải phù hợp với tiến độ phát triển phụ tải và lưới điện truyền tải.
Đã có nhiều dự án thủy điện nhỏ được xây dựng không theo quy hoạch do đó khi xây xong không có đường đấu nối vào lưới điện quốc gia, lại kiến nghị Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có phương án giải quyết nhưng cũng rất khó vì chi phí đầu tư cho lưới điện đấu nối quá tốn kém lại không hiệu quả.
Các chuyên gia năng lượng cho rằng việc cấp phép đầu tư và xây dựng nhiều dự án thủy điện nhỏ trong thời gian ngắn sẽ không đánh giá hết các tác động tiêu cực đối với môi trường-xã hội để kịp thời điều chỉnh và có biện pháp giảm thiểu. Đồng thời, việc cấp phép các dự án thủy điện nhỏ một cách tràn lan có nguy cơ phá vỡ Quy hoạch thủy điện đã được phê duyệt cũng như Quy hoạch lưới điện truyền tải.
Hiện nay, việc thẩm định, xem xét về Quy hoạch thủy điện nhỏ của tỉnh và Thiết kế cơ sở các dự án đã được Ủy ban Nhân dân các tỉnh giao Sở Công Thương phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện.
Tuy nhiên, do Sở Công Thương các tỉnh đều thiếu hoặc chưa có cán bộ chuyên môn thủy điện; việc phối hợp giữa các cơ quan liên quan của tỉnh chưa thực sự chặt chẽ; công tác kiểm tra giám sát việc tuân thủ các qui định của Nhà nước về đầu tư xây dựng, bảo vệ môi trường cũng như về quản lý chất lượng công trình cũng chưa được các địa phương quan tâm đúng mức.
Đồng thời, ngân sách cho nghiên cứu quy hoạch hạn chế nên chất lượng quy hoạch và thiết kế cơ sở của dự án chưa thực sự đáp ứng yêu cầu và thường xuyên phải điều chỉnh, bổ sung.
Bên cạnh đó, chủ đầu tư các dự án thủy điện nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, thiếu cán bộ chuyên môn có kinh nghiệm, quản lý chất lượng chưa chặt chẽ.
Thậm chí một số dự án còn chưa tuân thủ đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường, đảm bảo chất lượng công trình và an toàn đập. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo an toàn công trình đập và hồ chứa, vì sự cố công trình có thể gây tổn thất lớn về tài sản và tính mạng của nhân dân phía hạ du.
Đã có những dự án xảy ra khiếu kiện, tranh chấp về đầu tư tại một số tỉnh như Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Đắk Nông, Lâm Đồng....
Trong khi đó, hầu hết các tỉnh lại chưa thực hiện chế độ báo cáo thường xuyên về quản lý đầu tư xây dựng các dự án thủy điện theo quy định. Hiện cũng mới có 25 tỉnh có báo cáo về Quy hoạch và đầu tư xây dựng các dự án thủy điện theo yêu cầu của Bộ Công Thương.
Cần cân đối các lợi ích
Không thể phủ nhận việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện vừa và nhỏ đã và sẽ góp phần gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp và ngân sách cho các địa phương có dự án; tạo thêm nhiều việc làm cho lao động địa phương.
Việc đầu tư xây dựng các hồ chứa thủy điện cũng sẽ góp phần quan trọng trong việc trữ và điều hòa nước cho các nhu cầu khác, đặc biệt là vào mùa khô. Tuy nhiên, các chuyên gia năng lượng khẳng định việc phát triển các dự án thủy điện phải cân đối các lợi ích.
Cùng với việc đề xuất loại bỏ gần 40 dự án thủy điện vừa và nhỏ đã phê duyệt Quy hoạch, Bộ Công Thương cũng kiến nghị Ủy ban Nhân dân các tỉnh nghiên cứu điều chỉnh quy mô 35 dự án gây ảnh hưởng lớn đến môi trường-xã hội hoặc không phù hợp với các quy hoạch khác của tỉnh.
Đồng thời, Bộ yêu cầu giãn hợp lý việc khởi công xây dựng các dự án phù hợp với tiến độ đầu tư hệ thống truyền tải điện và kịp thời rút kinh nghiệm về đầu tư xây dựng các dự án thủy điện vừa và nhỏ.
Đối với các dự án chưa được xem xét trong Quy hoạch đấu nối điện, Bộ đề nghị chỉ khởi công xây dựng từ năm 2013 - sau khi Quy hoạch phát triển điện lực của tỉnh giai đoạn 2011-2015 được phê duyệt và hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư.
Còn các dự án hiện chưa có nhà đầu tư quan tâm, xem xét kỹ hiệu quả của dự án để cho phép đầu tư từ sau năm 2015.
Để tạo thuận lợi về đấu nối cho các dự án thủy điện, một số tỉnh đề nghị cho phép doanh nghiệp ngoài EVN đầu tư hệ thống truyền tải điện theo quy hoạch.
Về vấn đề này, Bộ Công Thương đã lưu ý các tỉnh rà soát cụ thể danh mục, quy mô và tiến độ đầu tư xây dựng các dự án thủy điện; đề xuất cụ thể về hình thức đầu tư, phương án vốn, tiến độ đầu tư, giá bán điện tăng thêm do đầu tư hệ thống truyền tải điện, phương án quản lý vận hành...
Trên cơ sở đó, Ủy ban Nhân dân tỉnh làm việc và thống nhất với EVN để có văn bản đề nghị Bộ Công Thương xem xét quyết định. Ngoài ra, việc yêu cầu các chủ đầu tư chủ động tìm đến nhau để cùng tham gia đấu nối một đường dây hạ áp sau đó đưa lên lưới 110kV sẽ là giải pháp giảm chi phí một cách hiệu quả nhất.
Trở lại việc phát triển “nóng” các dự án thủy điện, Bộ Công Thương cho rằng trong thời gian tới, các bộ, ngành và địa phương có liên quan tiếp tục rà soát quy hoạch và việc cấp phép đầu tư; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc đầu tư xây dựng nhằm điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế, kịp thời phát hiện và khắc phục các hạn chế để đảm bảo mục tiêu: phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội.
Bộ Công Thương sẽ phối hợp với Ủy ban Nhân dân các tỉnh xem xét các vấn đề liên quan đến năng lực, kinh nghiệm của Nhà đầu tư để có ý kiến trong việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án thủy điện.
Mặt khác, tiếp tục kiểm tra, rà soát và thực hiện các thủ tục để loại bỏ hoặc nghiên cứu điều chỉnh hợp lý các dự án thủy điện thuộc các quy hoạch đã được phê duyệt, đảm bảo việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện có hiệu quả và hài hòa các lợi ích./.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
"Tính toán bài toán tiền lương giống như đi thăng bằng trên dây vậy. Quả thật là vô cùng khó khăn", Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân nói với VnEconomy như vậy khi trao đổi xung quanh vấn đề lương tối thiểu và việc thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia.
Vụ cháy tại cây xăng ở Hà Nội mới đây cùng với việc phát hiện rút ruột xăng xe bồn tại Quảng Ninh đã làm nóng lên câu chuyện quản lý kinh doanh xăng dầu, tại cuộc họp của do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5/6.
Việc xây dựng và ban hành Luật Tố tụng hành chính nhằm đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án.
Điểm mới quan trọng nhất trong Luật Cán bộ, công chức là đổi mới chế độ công vụ mà trước hết là Luật này đã phân định rõ đối tượng cán bộ và công chức và tách biệt với đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ do bộ luật khác quy định (Luật Viên chức đang được xây dựng), trừ một số vị trí quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn là công chức.
Thực tế việc giao quyền cho các cơ sở y tế công lập được tự chủ, tự chịu trách nhiệm mới chỉ phát huy tác dụng ở một số đơn vị, ở các vùng có điều kiện kinh tế xã hội phát triển, nhưng lại chưa thực sự phát huy được sức mạnh của đội ngũ hơn 200 nghìn cán bộ y tế trong toàn quốc.
Theo dự báo của các ngành chức năng, tình hình cạn kiệt nước còn tiếp diễn đến tháng 6, thủy văn trên các sông ở ba miền sẽ tiếp tục thấp hơn từ 30-50%.
Bộ Tài chính vừa khẳng định, sẽ giúp báo chí tiếp cận thông tin về chính sách tài chính, tiền tệ một cách “nhanh nhất, bảo đảm tính chính xác và tin cậy”, giúp định hướng dư luận xã hội, tăng cường sự hiểu biết và tạo lòng tin của các nhà đầu tư và nhân dân.
Hội Vật liệu Xây dựng vừa đề nghị Chính phủ xem xét cho giảm thuế VAT từ 10% xuống còn 5% đối với mặt hàng vật liệu xây dựng để đối phó với tình trạng giá nguyên liệu đầu vào tăng cao.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.