Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Làm thế nào để Trọng tài Việt Nam là chỗ dựa của doanh nghiệp?(phần II)

B- Có chính sách ủng hộ Trọng tài

Để Trọng tài thực sự là một phương thức giải quyết tranh chấp, các nhà xây dựng văn bản không những nên tăng niềm tin đối với Trọng tài mà còn cần có chính sách ủng hộ Trọng tài. Cụ thể:

1) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Văn bản hiện hành. Việc Trọng tài có thẩm quyền không có nghĩa là Tòa án không có chút vai trò nào. Trong thực tế, vì Trọng tài là một cơ quan phi chính phủ nên vẫn cần có sự trợ giúp của Tòa án. Theo Điều 33 Pháp lệnh, thì “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời…”.

Kiến nghị. Như vậy, một bên có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, theo Điều 33 trên thì biện pháp này chỉ được tiến hành “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp”. Trước khi Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, một bên có quyền yêu cầu biện pháp trên không? Pháp lệnh không có câu trả lời. Thiết nghĩ, sẽ là hợp lý hơn nếu chúng ta cho phép yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời ngay cả khi Hội đồng Trọng tài chưa thụ lý giải quyết. Việc cho phép đó sẽ hạn chế trường hợp các bên tẩu tán, giấu tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành quyết định sau này.

2) Cải thiện tố tụng hủy quyết định trọng tài

Sự có mặt của các bên (văn bản). Khi không đồng ý với quyết định của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, các bên có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp. ở đây, bên không đồng ý có thể yêu cầu hủy quyết định trọng tài (Điều 50 Pháp lệnh). “Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, luật sư của các bên (nếu có), kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp một trong các bên yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng xét xử đồng ý thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài” (Khoản 3, Điều 53 Pháp lệnh). Như vậy, các bên có tranh chấp phải có mặt thì Tòa án mới xét đơn. Tòa án không được xét đơn khi không có mặt của họ nếu sự vắng mặt này là có “lý do chính đáng”. Pháp lệnh không định nghĩa thế nào là “lý do chính đáng” và không cho biết họ có thể vắng mặt với lý do chính đáng bao nhiêu lần. Do vậy, đây có thể là cái cớ để một bên kéo thêm thời gian.

Sự có mặt của các bên (thực tiễn). Ví dụ, sau khi có quyết định trọng tài, một trong ba bên có tranh chấp yêu cầu Tòa án hủy quyết định trọng tài. Trong quá trình thụ lý và tiến hành tố tụng, Toà án Hà Nội đã triệu tập đại diện theo uỷ quyền của một bên (bà Th.) nhưng người đại diện này đang trong thời kỳ thai nghén nên đã có công văn xin vắng mặt. Ngày 28/5/2004, Toà án mở phiên toà để giải quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài thì 8h cùng ngày, Toà án nhận được đơn xin hoãn phiên toà (bản fax) của bà Th. với lý do vừa mới sinh cháu và đang trong thời kỳ nghỉ thai sản nên không thể đi lại được. Chính vì vậy, Toà án đã phải hoãn phiên toà chờ cho bà Th. có thời gian trên 04 tháng nghỉ sau khi sinh theo đúng quy định của Nhà nước. Ngày 14/7/2004, Toà án quyết định mở phiên toà để giải quyết vụ kiện. Nhưng vào hồi 8h28’ ngày 14/7/2004, Toà án lại nhận được đơn yêu cầu hoãn phiên xử (bản fax) của bà Th. với lý do con bà Th. bị ốm viêm màng não nên không tham dự được phiên toà và đề nghị cho tạm dừng việc giải quyết cho đến khi cháu bé tròn 01 năm tuổi. Cùng với đơn trên, bà Th. còn xuất trình 05 phiếu thu viện phí của con bà.

Như vậy, bà Th. liên tục đưa ra lý do xin hoãn phiên tòa. Trước hoàn cảnh này, theo Tòa án, “bà Th. là đại diện theo uỷ quyền của Ngân hàng phát triển Hàn Quốc chi nhánh Teagu. Trong giai đoạn tố tụng tại Trọng tài quốc tế Việt Nam bà Th. là đại diện cho phía bị đơn; Trong giai đoạn tố tụng để giải quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài tại Toà án bà Th. chỉ là đại diện cho bên có quyền và nghĩa vụ liên quan và thực chất toà cũng chỉ xem xét đến những vấn đề mà bên có yêu cầu nêu ra. Nếu trong trường hợp bà Th. không có điều kiện để tham dự phiên toà thì bà Th. phải từ chối trách nhiệm làm người đại diện và yêu cầu Ngân hàng phát triển Hàn Quốc chi nhánh Teagu cử người khác thay thế. Nay bà Th. có yêu cầu xin hoãn dừng phiên toà giải quyết vụ kiện cho đến khi con của bà Th. tròn 01 năm tuổi là không thể chấp nhận”.

Vẫn theo Tòa án, xét về lý do cháu H.L. (con bà Th.) bị viêm màng não, Toà nhận thấy: “Trên thực tế khả năng cháu H.L. bị ốm là có, song bệnh viêm màng não là một bệnh phải có thời gian điều trị lâu dài. Với những chứng từ viện phí mà bà Th. xuất trình thì cháu H.L. vào viện ngày 11/3/2004 và ra viện ngày 05/4/2004, sau đó cháu có mấy lần vào viện để khám bệnh đó là vào các ngày 13/4, 03/5 và 22/5 và từ đó đến nay (ngày 14/7/2004) gần hai tháng không có căn cứ để xác định cháu H.L. vẫn đang bị bệnh và nằm điều trị. Theo khoản 2 Điều 53 Pháp lệnh Trọng tài thương mại thì thời hạn để mở phiên toà xét đơn yêu cầu là 30 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ. Vụ kiện này đã được thụ lý vào ngày 21/10/2003, song do Pháp lệnh Trọng tài thương mại mới có hiệu lực, việc thực hiện theo Pháp lệnh giữa các cơ quan hữu quan chưa thống nhất nên phần nào đã ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết. Nay bà Th. đưa lý do mới sinh, cháu bé bị ốm để đề nghị dừng việc giải quyết vụ kiện cho đến khi con tròn 01 năm tuổi (nghĩa là sau ngày 11/03/2005) là lý do không thể chấp nhận được. Chính vì vậy, sau khi cân nhắc và nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã quyết định tiến hành phiên toàn nhằm đảm bảo thời hạn xét xử theo đúng quy định của pháp luật” (7).

Kiến nghị. Ví dụ trên cho thấy, việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định trọng tài đã kéo dài khoảng 9 tháng và có nguy cơ kéo dài thêm nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu hoãn phiên tòa lần thứ hai. Với quy định như hiện nay, chúng ta làm giảm hiệu quả của việc giải quyết bằng con đường trọng tài mà chúng ta thường cho là nhanh hơn thủ tục trước Tòa án. Trước hoàn cảnh trên, Tòa án đã phải xem xét và cho rằng việc xin hoãn phiên tòa lần thứ hai là không có lý do chính đáng.

Để giảm những tình trạng kéo dài vụ việc như trên, chúng ta nên quy định thêm theo hướng là Tòa án không phải hoãn phiên tòa nếu thấy rằng, sự có mặt của bên vắng mặt không làm ảnh hưởng tới kết quả xét đơn. Trong vụ việc trên, theo Tòa án, “thực chất toà cũng chỉ xem xét đến những vấn đề mà bên có yêu cầu nêu ra” và thực tế Tòa án đã hủy quyết định trọng tài mà không cần sự có mặt của bà Th. ở đây, việc có mặt hay không của bên có tranh chấp không ảnh hưởng đến kết quả của việc xét đơn.

Hơn nữa, chúng ta cũng nên quy định thêm là Tòa án chỉ có thể được hoãn phiên tòa một lần nếu có lý do chính đáng; lần xét xử thứ hai sẽ được tiến hành ngay cả khi không có mặt của bên đã vắng mặt lần trước, bất kể lý do là gì. Trong vụ việc vừa liệt kê, Tòa án đã phải lý giải việc bà Th. vắng mặt là không có lý do chính đáng và việc xem xét lý do liên quan đến việc con bà Th. bị ốm có điều gì không tự nhiên. Với việc quy định như kiến nghị, chúng ta sẽ tạo điều kiện cho tòa án giải quyết nhanh vấn đề hủy quyết định trọng tài và không cần phải xem xét là lý do vắng mặt lần hai có chính đáng hay không.

3) Sửa đổi khái niệm quyết định trọng tài nước ngoài

Văn bản. Theo Khoản 2, Điều 342 Bộ luật Tố tụng dân sự, “quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp”. Quy định này đã tồn tại trong Pháp lệnh thừa nhận Quyết định của trọng tài nước ngoài năm 1995. Như vậy, Trung tâm Trọng tài nước ngoài có thể giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Trong trường hợp này, phán quyết trọng tài là phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Do đó, việc tiếp nhận phán quyết đó được tiến hành như những quyết định của Trọng tài nước ngoài khác và không chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh trọng tài năm 2003.

Thực tiễn. Thực tế đã có trường hợp, các bên chọn Trung tâm Trọng tài quốc tế nước ngoài nhưng địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam và việc giải quyết này không chịu sự chi phối của Pháp lệnh Trọng tài. Ví dụ, năm 2003, Công ty Cơ khí A của Việt Nam ký một hợp đồng với Công ty Conares Metal của Vương quốc Lichtenxtain. Trong hợp đồng, các bên chọn Toà án Trọng tài của Phòng Thương mại quốc tế ICC và “nơi giải quyết Trọng tài là Hà Nội”. Khi có tranh chấp, các bên đưa tranh chấp ra trước Trọng tài. Trung tâm trọng tài này đã chấp nhận giải quyết và đã sử dụng một trọng tài viên duy nhất giải quyết là một luật sư người Pháp đang làm việc tại Việt Nam. Ngày 18/10/2004, Trọng tài quốc tế thuộc Phòng Thương mại quốc tế đã ra phán quyết. Sau đó Công ty Conares Metal yêu cầu Toà án Hà Nội cho công nhận và thi hành quyết định. Trong quá trình sơ thẩm và phúc thẩm, Toà án đã áp dụng những quy định liên quan đến việc “yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài” (8).

Kiến nghị. Giải pháp của pháp luật Việt Nam như trên là không thuyết phục vì:

Thứ nhất, với quy định như vậy, quyết định được tuyên ở nước ta bởi trọng tài nước ngoài có nhiều khả năng sẽ không bị kiểm tra bởi bất kỳ Tòa án nào. Bởi lẽ, chúng ta coi đó là quyết định nước ngoài nên sẽ không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét việc công nhận và thi hành tại Việt Nam. Trong trường hợp này, ở nước ngoài họ lại coi đây là quyết định của Việt Nam nên cũng không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét trên góc độ công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại nước họ. Trong ví dụ trên, chúng ta coi quyết định tuyên trên lãnh thổ nước ta là quyết định trọng tài nước ngoài nên chúng ta không áp dụng những quy định hủy quyết định trọng tài của Việt Nam. ở Pháp, họ chỉ can thiệp để hủy khi quyết định trọng tài được tuyên trên lãnh thổ của Pháp. Vì quyết định trên được tuyên ở Việt Nam (tức là không trên lãnh thổ Pháp) nên Tòa án Pháp sẽ không can thiệp để hủy.

Thứ hai, với quy định như vậy, các bên sẽ không có nhu cầu yêu cầu Trọng tài quốc tế của Việt Nam để giải quyết. Các bên sẽ yêu cầu trọng tài nước ngoài giải quyết nhưng địa điểm giải quyết tại Việt Nam. Nói một các khác, chúng ta hướng các bên giải quyết bằng trọng tài nhưng không phải là trọng tài của Việt Nam mà hướng các bên tới Trọng tài nước ngoài. Điều đó có nghĩa là chúng ta không ủng hộ trọng tài của Việt Nam mà ủng hộ cho trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Thiết nghĩ, khái niệm quyết định trọng tài nước ngoài như trên nên sớm được thay đổi. Chúng ta không nên coi những phán quyết tuyên trên lãnh thổ Việt Nam là quyết định trọng tài nước ngoài. Do đó, những quyết định trên lãnh thổ Việt Nam sẽ chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh Trọng tài (hay Luật, nếu sau này sửa đổi).

II- Những việc nhà áp dụng văn bản nên làm

Hiện nay có hai chủ thể thường xuyên áp dụng Pháp lệnh, đó là Tòa án (A) và Trọng tài (B). Việc áp dụng những quy định về trọng tài tại Việt Nam cũng có thể ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Trọng tài, tức là cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các doanh nghiệp khi họ cân nhắc có chọn Trọng tài hay không. Chúng ta lần lượt nhìn nhận việc áp dụng pháp luật trọng tài nước ta đối với hai chủ thể này.

A- Những việc Tòa án nên làm khi áp dụng pháp luật

Các văn bản pháp luật nhiều khi thường trừu tượng, khá chung chung nên khi áp dụng vào trường hợp cụ thể sẽ có những kết quả khác nhau, tùy vào nhận thức của người áp dụng. Những quy định về trọng tài cũng vậy. Trên thực tế, đôi khi Tòa án đã vận dụng những quy định của Pháp lệnh Trọng tài theo hướng bất lợi cho Trọng tài. Việc làm này có thể giảm tính hiệu quả của Trọng tài. Do vậy, nếu chúng ta thực sự muốn Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp mà các doanh nghiệp ưa thích, thì Tòa án cũng nên cải thiện cách áp dụng pháp luật để tạo điều kiện cho Trọng tài. Ví dụ.

1- Sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài

Sự cần thiết. Nếu không có văn bản ràng buộc các bên đưa tranh chấp ra trước Trọng tài, Trọng tài chỉ có thể giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận về Trọng tài. Pháp lệnh Trọng tài đã nhấn mạnh điều này.

Chẳng hạn, “pháp lệnh này quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thoả thuận của các bên” (Điều 1 Pháp lệnh) và “tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài” (Khoản1, Điều 3 Pháp lệnh). Như vậy, “thỏa thuận Trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng Trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Nói cách khác, không có thỏa thuận Trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài” (9).

Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Nếu có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý thì Trọng tài cũng không có thẩm quyền và, nếu Trọng tài vẫn giải quyết trong trường hợp này, quyết định trọng tài sẽ bị hủy theo Điều 54 Pháp lệnh.

Xác định sự tồn tại. Theo khoản 2, Điều 2 Pháp lệnh, “thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”. Bộ luật Tố tụng dân sự cũng quy định tương tự trong Khoản 1, Điều 365, “thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản về Trọng tài đã được ghi trong hợp đồng hoặc thoả thuận riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp”. Nếu các bên nêu rõ một thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng thì không có vấn đề gì. Tuy nhiên, thực tiễn rất phong phú và phức tạp nên Tòa án cần phải linh động để tăng hiệu quả của Trọng tài. Xin dẫn một ví dụ (10).

Ngày 10N/01/1998, Hanafood và Công ty Tràng Tiền (đều của Việt Nam) đã ký hợp đồng số 17/UT-HISTF. Theo đó, phía Công ty Tràng Tiền uỷ thác cho Hanafood nhập lô hàng 55 chiếc xe ôtô đã qua sử dụng của Công ty Woolim (Hàn Quốc). Tại Điều 5 của hợp đồng các bên đã thoả thuận là “hai bên cam kết thực hiện trách nhiệm của mình, trong quá trình thực hiện nếu có tranh chấp sẽ cùng nhau bàn bạc giải quyết. Nếu không thống nhất sẽ đưa ra Toà án kinh tế để giải quyết”. Trên cơ sở hợp đồng uỷ thác trên, cùng ngày 10/01/1998 Hanafood ký hợp đồng mua bán số 73/NK-HNF với Công ty Woolim. Tại Điều 7 của hợp đồng mua bán này, hai bên có thoả thuận: “Bất kỳ tranh chấp nào nảy sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng này mà không thể thoả thuận giải quyết, sẽ được giải quyết bởi Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, quyết định của I.C.A sẽ là cuối cùng. Bên thua sẽ phải thanh toán lệ phí”. Ngoài hai hợp đồng trên, cùng ngày 10/01/1998, giữa Công ty Woolim (được gọi là Bên A), Công ty Tràng Tiền (được gọi là Bên B) và Hanafood (được gọi là bên C) có văn bản thoả thuận giữa ba bên với nội dung: “Bên B chịu trách nhiệm thanh toán tiền hàng trực tiếp với bên A. - Bên B chịu trách nhiệm thanh toán tiền hàng trực tiếp với Bên A thông qua tài khoản bên C. Bên C được miễn trừ trách nhiệm thanh toán cho bên A. - Bên B chịu trách nhiệm trực tiếp với bên A giải quyết mọi tranh chấp và khiếu nại nếu có. Bên C được miễn trừ mọi tranh chấp và khiếu nại nếu có”.

Ở đây, rõ ràng giữa Công ty Woolim và Hanafood có một thỏa thuận trọng tài. Vấn đề đặt ra là thỏa thuận này có ràng buộc Công ty Tràng Tiền không?

Theo Tòa án, “căn cứ vào nội dung của bản thoả thuận này (giữa ba bên), cần được hiểu rằng đây là một văn bản chuyển giao quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Theo đó, bên phải chịu trách nhiệm thanh toán tiền hàng cho bên bán ở nước ngoài là Công ty Tràng Tiền, và cũng theo văn bản này thì phía Hanafood được miễn trừ trách nhiệm trong các tranh chấp và khiếu nại song không có nghĩa là thoả thuận về cơ quan tài phán giữa Hanafood với Woolim có giá trị ràng buộc đối với Công ty Tràng Tiền. Như vậy, có thể thấy rằng: Giữa Woolim và Hanafood có thoả thuận chọn cơ quan tài phán là Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam; giữa Công ty Tràng Tiền với Hanafood lựa chọn cơ quan tài phán là Toà án; còn giữa Woolim với Công ty Tràng Tiền không trực tiếp ký kết hợp đồng với nhau nên hai bên không có thoả thuận về cơ quan tài phán (…). Giữa Công ty Tràng Tiền và Công ty Woolim không có thoả thuận trọng tài, do đó, Công ty Tràng Tiền không thể là bị đơn trong vụ kiện”.

Phần vừa rồi cho thấy, đối với Tòa án, thì “giữa Woolim với Công ty Tràng Tiền không trực tiếp ký kết hợp đồng với nhau nên hai bên không có thoả thuận về cơ quan tài phán”. Quả thực, giữa đôi bên không trực tiếp ký một thỏa thuận trọng tài nhưng việc “chuyển giao quyền và nghĩa vụ giữa các bên” như Tòa án đã nêu có dẫn tới việc chuyển giao thỏa thuận trọng tài từ Hanafood sang Công ty Tràng Tiền không? Theo thỏa thuận của ba bên, Công ty Tràng Tiền chịu trách nhiệm thanh toán tiền hàng trực tiếp với Công ty Woolim và chịu trách nhiệm trực triếp với Công ty Woolim giải quyết mọi tranh chấp, khiếu nại nếu có. Phía Hanafood được miễn trừ mọi tranh chấp và khiếu nại nếu có. Về phần mình, Tòa án cho rằng “đây là một văn bản chuyển giao quyền và nghĩa vụ giữa các bên” nhưng Tòa án lại không thừa nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng ban đầu đối với công ty Tràng Tiền và Công ty Woolim.

Xét từ góc độ pháp luật Việt Nam, giải pháp của Tòa án không thực sự thuyết phục. Bởi lẽ, theo Bộ luật Dân sự nước ta, “khi người có nghĩa vụ chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ, thì người thế nghĩa vụ trở thành người có nghĩa vụ” (11). ở đây, Hanafood có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Woolim tiền mua hàng nhưng đã chuyển nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Tràng Tiền nên Công ty Tràng Tiền trở thành người có nghĩa vụ (người thế nghĩa vụ) thanh toán cho Công ty Woolim. Công ty Woolim được quyền kiện đòi Hanafood nên cũng có quyền đòi Công ty Tràng Tiền. Họ được đòi Công ty Tràng Tiền như họ được quyền đòi Hanafood, trong khi đó, họ được quyền khởi kiện Hanafood bằng con đường trọng tài. Do vậy, Công ty Woolim cũng được truy đòi Công ty Tràng Tiền thông qua con đường trọng tài. Nói một cách khác, thỏa thuận trọng tài giữa Công ty Woolim và Hanafood ràng buộc Công ty Tràng Tiền vì Công ty Tràng Tiền là người thế nghĩa vụ của Hanafood. Xin nói thêm là, ở nước ngoài, như ở Pháp chẳng hạn, trong những trường hợp như vậy, Tòa án cũng cho rằng thỏa thuận trọng tài ràng buộc bên thế nghĩa vụ. Do đó, Tòa án chúng ta cũng nên vận dụng pháp luật theo hướng mà chúng tôi vừa phân tích. Với việc làm như vậy, Tòa án sẽ tăng vai trò của Trọng tài.

2) Tính không rõ ràng của thỏa thuận trọng tài

 Thoả thuận không rõ ràng. Trong thực tế, khi xác lập thoả thuận trọng tài, có thể các bên không rõ ràng về đối tượng tranh chấp hay tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp này, các bên nên bổ sung nếu không thì thoả thuận có nguy cơ bị vô hiệu và Trọng tài không có thẩm quyền xét xử. Bởi lẽ, theo Điều 10, khoản 4, thoả thuận trọng tài vô hiệu khi “thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung”. Pháp lệnh không định nghĩa khi nào là “thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết”. Một vấn đề có thể rõ ràng với người này và không rõ ràng với người khác. Thực ra mà nói thì không có khái niệm nào “không rõ ràng” bằng khái niệm “rõ ràng”. Tất cả phụ thuộc vào những người áp dụng nó. Do đó, ranh giới giữa thỏa thuận trọng tài có giá trị pháp lý và thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý là rất mỏng manh. ở đây, nhận thức và chính sách áp dụng pháp luật của Tòa án là rất quan trọng. Xin dẫn một ví dụ minh họa.

Đánh giá của Tòa án. Giữa các bên đã thoả thuận với nhau rằng “Tranh chấp sẽ được giải quyết bởi Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh”. Nhưng theo Tòa án, đây “là một thoả thuận không rõ ràng về tổ chức trọng tài có thẩm quyển giải quyết vụ tranh chấp; và theo đó, nếu như giữa (các bên) không có sự thoả thuận bổ sung để chọn trọng tài như quy định tại Điều 10.4 Pháp lệnh trọng tài thương mại thì phải coi thoả thuận chọn trọng tài tại Điều 7 hợp đồng 73/RK-HNF là thoả thuận trọng tài vô hiệu” (12).

Ở đây, rõ ràng các bên đã muốn chọn “Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam”, mà ở nước ta chỉ có duy nhất một “Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam”. Tuy nhiên, phần sau của đoạt trên có thêm là “tại TP. Hồ Chí Minh”. Và do vậy, Tòa án đã cho rằng thỏa thuận trên là không “rõ ràng”. Ví dụ cho thấy ranh giới giữa “rõ ràng” và “không rõ ràng” đôi khi là quá mỏng manh. Nếu chúng ta ủng hộ Trọng tài, chúng ta có thể cho rằng đó chỉ là sơ suất về sử dụng từ chứ thực ra ý tưởng của các bên đã rõ ràng là chọn “Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam”. Còn phần sau có thể là nơi xét xử tại TP. Hồ Chí Minh mà nếu các bên có mâu thuẫn về nơi xét xử cũng không làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu.

Ở Pháp, Tòa án cũng như Trọng tài đều chấp nhận thỏa thuận có những sơ suất như ví dụ của chúng ta. Chẳng hạn, họ đã chấp nhận thẩm quyền của Trọng tài mặc dù các bên nêu trong thỏa thuận là chọn Trọng tài của Phòng Thương mại quốc tế “có trụ sở tại Genève” hay “của Zurich” trong khi thực tế chỉ có một Phòng Thương mại quốc tế ở Paris. Theo thực tiễn của Pháp, thì đây chỉ là những sơ suất chứ ý tưởng của các bên đã rõ ràng là chọn Trọng tài của Phòng Thương mại quốc tế Paris. Như vậy, Tòa án của chúng ta cũng nên tham khảo việc vận dụng pháp luật ở nước ngoài và nên có chính sách ủng hộ trọng tài. Từ những việc làm đó, Tòa án sẽ tạo điều kiện cho Trọng tài và thúc đẩy các bên chọn Trọng tài.


(Theo TS. Đỗ Văn Đại // Báo Nghiên cứu Lập Pháp Online)

  • Điện thoại di động NK vào khu kinh tế thương mại không được hoàn thuế
  • Thuế GTGT và thuế TNDN đối với các Đài Truyền hình
  • Những điều cần biết về chính sách bảo hiểm thất nghiệp
  • Giới thiệu Chính sách - Pháp luật Công chức gồm những đối tượng nào?
  • Những điều cần biết về chính sách bảo hiểm thất nghiệp
  • Giới thiệu Chính sách – Pháp luật Qui định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
  • Sửa đổi hiến pháp ở Mỹ (tiếp theo kỳ trước)
  • Những khác biệt trong pháp luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam và Singapore(phân I)
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Các chiêu lừa đảo trực tuyến dịp cuối năm
  • Trận chiến chống rửa tiền (bài 1)
  • Trận chiến chống rửa tiền (bài 2)
  • Trận chiến chống rửa tiền (bài 3)
  • Lương chủ tịch, tổng giám đốc cao hay thấp ? Lương hay lậu ?
  • Nấm linh chi: Thật giả khó lường
  • Hàng trên mạng: Tin là... “chết”!
  • Thép Đông Nam Á bị cáo buộc vi phạm thương hiệu VNSTEEL
  • Hành vi chậm nộp hồ sơ đăng ký thuế bị xử lý như thế nào?
  • Trục lợi bảo hiểm: Muôn hình vạn trạng
  • Quyền khởi kiện thành viên HĐQT, giám đốc
  • Thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng bất động sản: 2% hoặc 25%