Các tổ chức tín dụng phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho hoạt động chịu thuế |
Các tổ chức tín dụng thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với hoạt động dịch vụ ngân hàng (trừ kinh doanh mua, bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ) theo quy định hiện hành, cụ thể:
Số thuế GTGT phải nộp = Số thuế GTGT đầu ra - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Trong đó: a) Thuế GTGT đầu ra bằng (=) giá tính thuế của dịch vụ chịu thuế bán ra trong kỳ nhân với (x) thuế suất tương ứng. Giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế được ghi trên hoá đơn GTGT.b) Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là số thuế GTGT đầu vào được xác định trên các hoá đơn GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho hoạt động kinh doanh dịch vụ chịu thuế GTGT.
Thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ. Riêng đối với thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định là nhà làm trụ sở văn phòng và các thiết bị chuyên dùng phục vụ hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng thì không được khấu trừ mà tính vào nguyên giá của tài sản cố định.
Đối với các tổ chức tín dụng có doanh thu hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT (doanh thu dịch vụ ngân hàng) và doanh thu dịch vụ không chịu thuế GTGT, các tổ chức tín dụng phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho hoạt động chịu thuế để xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ. Trường hợp không hạch toán riêng được thì thuế đầu vào được khấu trừ theo tỉ lệ (%) giữa doanh số chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của dịch vụ, hàng hoá bán ra, trong đó: Doanh số chịu thuế GTGT là toàn bộ doanh thu của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT nộp theo phương pháp khấu trừ. Tổng doanh số dịch vụ, hàng hoá bán ra trong kỳ bao gồm: doanh số hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT: doanh số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT và chênh lệch dương của hoạt động mua bán ngoại tệ, kinh doanh vàng bạc đá quý. Trường hợp các tổ chức tín dụng có doanh thu nội bộ khi thực hiện giao dịch gửi, vay giữa Hội sở chính và các chi nhánh trong cùng một đơn vị kế toán đóng trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ thì doanh thu để tính tỷ lệ phân bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ không bao gồm doanh thu về thu lãi cho vay nội bộ.
Phương pháp trực tiếp trên GTGT
Phương pháp này áp dụng đối với hoạt động kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ. Đối với các tổ chức tín dụng vừa có hoạt động tín dụng, dịch vụ ngân hàng, vừa có kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ và các hàng hoá dịch vụ khác thì phải tính riêng thuế GTGT phải nộp đối với kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT bằng GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân (x) với thuế suất áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ đó. Đối với kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý: GTGT là số chênh lệch giữa doanh số bán ra vàng bạc, đá quý trừ (-) giá vốn của vàng bạc, đá quý bán ra.
Đối với kinh doanh ngoại tệ: Trường hợp các tổ chức tín dụng thực hiện hạch toán bằng đồng VN: giá tính thuế GTGT của hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng là số chênh lệch giữa doanh số bán ra của ngoại tệ trừ giá vốn của ngoại tệ tương ứng bán ra.
Trường hợp các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hạch toán bằng ngoại tệ, giá tính thuế GTGT của hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng hàng tháng là phần lãi/lỗ của hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong tháng được quy đổi ra bằng đồng VN theo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố tại ngày cuối cùng của tháng.
Các tổ chức tín dụng thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT nhưng có hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì sử dụng hoá đơn bán hàng trên.
(Theo Diễn đàn doanh nghiệp)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com