Quốc hội trong kỳ họp vừa qua đã tán thành mục tiêu kiềm chế giá tiêu dùng tăng dưới 15% trong năm 2009.
Nhưng trong 10 nhiệm vụ được xác định, nhiệm vụ “theo dõi chặt chẽ, nâng cao chất lượng phân tích và dự báo tình hình trong nước và quốc tế”, lại được đẩy lên hàng đầu.
Điều này không ngoài mục đích chủ động xây dựng các phương án ứng phó, hạn chế những tác động bất lợi đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, với những động thái quốc tế và trong nước gần đây, có những căn cứ chủ yếu sau đây để cho rằng, giá tiêu dùng khó có khả năng tăng ở mức hai con số.
Giá nguyên liệu trên thị trường thế giới hạ nhiệt
Thứ nhất, khủng hoảng tài chính thế giới đã, đang và sẽ còn đẩy giá cả hàng hoá thế giới chìm vào cơn sốt lạnh rất sâu, cho nên thị trường trong nước không thể không hạ nhiệt theo thị trường thế giới.
Trước hết, các số liệu thống kê của IMF cho thấy, nếu như năm 2003 giá nguyên liệu thế giới chỉ tăng 11,5%, thì 5 năm trở lại đây sốt nóng hầu như liên tục gia tăng: năm 2004 tăng 23,9%; năm 2005 tăng 24,2%; năm 2006 tăng 20,7%; năm 2007 tăng 11,9% và ước tính năm 2008 tăng kỷ lục 28,7%.
Thế nhưng, trước xu thế bắt đầu manh nha giảm từ tháng 8 vừa qua, tháng 10 IMF dự báo giá nguyên liệu thế giới trong năm 2009 sẽ chỉ giảm nhẹ 6,2%, nhưng chính trong tháng này giá nguyên liệu thế giới bất ngờ rơi tự do 21,6%, đầu tháng 11 định chế tài chính quốc tế này đã đưa ra một dự báo gây chấn động dư luận quốc tế rằng, giá nguyên liệu thế giới trong năm 2009 sẽ rơi tự do 21,4%.
Việc giá dầu mỏ thế giới liên tục giảm buộc giá trong nước cũng phải sớm giảm theo, còn giá những hàng hoá và dịch vụ có liên quan chẳng chóng thì chầy chắc chắn cũng sẽ buộc phải giảm theo.
Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, thay vì bị lạm phát do chi phí đẩy ngày càng mạnh liên tục trong nhiều năm qua, việc giá nguyên liệu nhập khẩu sẽ còn tiếp tục giảm mạnh trong thời gian tới sẽ làm triệt tiêu nguyên nhân gây lạm phát đặc biệt quan trọng này.
Xuất khẩu gặp nhiều khó khăn
Thứ hai, bên cạnh những tác động rất mạnh của việc giá cả thế giới rơi tự do như vậy, xuất khẩu hàng hoá của ta trong năm 2009 sắp tới chắc chắn sẽ còn gặp những khó khăn gay gắt hơn nhiều, cho nên cũng sẽ góp phần tạo ra sức ép giảm giá trong nước.
Sở dĩ như vậy là bởi lẽ, cùng với giá cả rơi tự do, nhập khẩu hàng hoá, đặc biệt là của các trung tâm kinh tế thế giới, những thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của nước ta, sẽ “chạm đáy” với mức tăng trưởng “âm” 0,1% trong năm 2009 sắp tới, trong khi năm 2008 ước tính vẫn còn tăng 1,8%; năm 2007 tăng 4,5%; năm 2006 tăng 7,5%...
Về phương diện này, mặt hàng gạo xuất khẩu có lẽ là một thí dụ tiêu biểu nhất. Giá gạo thế giới liên tục giảm mạnh khiến hoạt động xuất khẩu ngày càng gặp khó khăn, tạo sức ép giảm giá trong nước ngày càng lớn.
Giá lương thực, thực phẩm tiếp tục giảm
Thứ ba, về phía thị trường trong nước, một tác nhân rất quan trọng gây lạm phát phi mã trong thời gian qua đã và sẽ tiếp tục được loại trừ.
Đó là, nếu quan sát những diễn biến của giá tiêu dùng trong 23 tháng (từ tháng 1/2007 đến tháng 11/2008) có lạm phát cao, 18 tháng đầu tiên là thời đoạn giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống liên tục tăng mạnh, cho nên tỷ trọng trong tổng mức tăng của giá tiêu dùng của nhóm hàng này đã từ 46,10% tăng lên mức kỷ lục 71,17%, nhưng từ đó đến nay đã liên tục giảm, cho nên tỷ trọng này hiện chỉ còn 67,95% (tỷ trọng tương ứng của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại là 53,90%; 28,53% và 32,05%).
Có thể nói, nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn đến bước ngoặt trong diễn biến giá cả này chính là việc chúng ta liên tục được mùa lúa chưa từng có từ đầu năm đến nay khiến giá lương thực từ tháng 7 đến nay đã liên tục giảm và việc bảo đảm an ninh lương thực trong nước tốt hơn trong thời gian tới sẽ khiến chúng ta không còn phải đối mặt với lạm phát cao bắt nguồn từ tác nhân nội sinh rất quan trọng này.
Lạm phát do cầu kéo suy giảm
Thứ tư, cho dù chúng ta sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% trong năm tới, nhưng đây cũng sẽ vẫn là năm thứ hai tụt dốc, cho nên lạm phát do cầu kéo sẽ tiếp tục suy yếu thêm.
Sở dĩ như vậy là bởi lẽ, nếu như trong tám năm 2000-2007, việc hầu như liên tục duy trì được đà tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước đồng nghĩa với tốc độ tăng thu nhập của quảng đại các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao, sức mua của thị trường trong nước ngày càng mạnh, thì ngược lại, sự suy giảm tốc độ tăng liên tiếp trong hai năm 2008-2009 lại đồng nghĩa với tốc độ tăng thu nhập giảm, sức mua giảm khiến giá cả không thể tăng mạnh.
Không những vậy, việc giá cả không thể tăng mạnh còn bắt nguồn từ nguyên nhân “kép” khác. Đó là, sau một khoảng thời gian lạm phát phi mã quá dài, sức mua của một bộ phận không nhỏ dân cư đã bị suy kiệt và khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phát triển khó khăn, công ăn việc làm của bộ phận dân cư này trở nên khó khăn hơn, thu nhập giảm sẽ khiến sức mua giảm.
Tiếp theo, trong điều kiện xu thế giá cả giảm ngày càng mạnh và kéo dài, tâm lý “thắt lưng buộc bụng” của một bộ phận rất lớn dân cư sẽ mạnh hơn và điều này cũng khiến sức mua xã hội giảm.
Việc tốc độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong thời kỳ sốt lạnh những năm cuối thập kỷ trước và đầu thập kỷ này chỉ dao động xung quanh ngưỡng 10%, tức là chưa bằng một nửa của những năm nền kinh tế đang trên đà tăng tốc gần đây và cũng chỉ bằng 1/3 tốc độ tăng của năm lạm phát tăng phi mã 2008 đủ cho thấy điều đó.
Nói tóm lại, trong điều kiện hội đủ các yếu tố tiền tệ, chi phí đẩy và cầu kéo đều mạnh như năm 2007 và năm 2008, lạm phát của nước ta đã tăng phi mã, còn trong năm 2009 sắp tới, khi cả ba yếu tố này không còn, chí ít là sẽ bị suy yếu rất nhiều, thì không có lý gì lạm phát sẽ cao ngất ngưởng ở mức hai con số.
Trong báo cáo về tình hình kinh tế tháng 9 vừa qua của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBSGTCQG), cơ quan này nhấn mạnh trong những tháng còn lại của năm 2012 Chính phủ cần tính toán và có những bước đi thận trọng trong việc điều chỉnh giá một số hàng hóa, dịch vụ. Trước mắt tạm thời chưa điều chỉnh thêm giá trong tháng 10 để củng cố tâm lý thị trường.
Các nhà kinh tế của IMF đã nghiên cứu lịch sử tất cả các thảm họa tài chính toàn cầu và khu vực từ năm 1970-2011. Tuy nhiên cũng còn có một điềm báo khác nữa – đa phần các cuộc khủng hoảng đều diễn ra vào năm trước bầu cử ở những nước lớn. Mà năm nay, ai cũng biết rằng, sẽ có cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ và sự thay đổi chính phủ theo kế hoạch ở Trung Quốc.
Dường như đang xuất hiện những thái độ lạc quan thái quá khi nhiều người đã tuyên bố tăng giá, bơm tiền vẫn không lo lạm phát. Trong khi những bài học về lạm phát trước đây do tiền tệ và giá cả vẫn còn nguyên giá trị.
Sau khi tính toán kỹ lưỡng, giới chuyên gia kinh tế vừa dự đoán nước Mỹ cần khoảng 2.000 tỷ USD để vực dậy nền kinh tế đang suy sụp.
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến tài sản của những người giàu nhất thế giới vơi đi đáng kể. Người mất nhiều nhất lên tới 32,5 tỷ USD. Dưới đây là danh sách 10 tỷ phú mất nhiều tiền nhất.
Cuối tuần trước, Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel đã công bố một Chiến lược toàn diện nhằm giải quyết những điểm yếu cơ bản được bộc lộ trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua.
Trong một số cuộc hội thảo, trên một số phương tiện thông tin đại chúng, trên diễn đàn Quốc hội và kỳ họp mới đây của Chính phủ, các cụm từ "lạm phát", "thiểu phát" và "giảm phát" đã xuất hiện. Đây là những vấn đề rất quan trọng, bởi đó không chỉ là sự đánh giá, mà còn là căn cứ để hoạch định chính sách vĩ mô. Nhưng hiện có nhiều ý kiến khác nhau.
Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) cho biết, số ngân hàng “có vấn đề” ở nước này tính tới quý 4 vừa qua đã tăng gần 50% so với cùng kỳ năm ngoái, lên mức 171 ngân hàng.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.