Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đang tạo ra những hiệu ứng suy thoái kinh tế không chỉ ở nước Mỹ mà lan ra toàn cầu. Những giải pháp đối phó của chính phủ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng mang tính chất quốc tế hóa hơn.
Hàng nghìn tỷ USD được bơm vào thị trường để chống đỡ cuộc khủng hoảng tài chính và ngăn chặn đà suy thoái của các nền kinh tế lớn trên thế giới. Chủ nghĩa tự do hóa thị trường và tư nhân hóa nền kinh tế một cách cực đoan là một tác nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính, dẫn tới sự suy thoái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Luận điệu không cần "bàn tay nhà nước" trong nền kinh tế thị trường mà nhiều người từng lớn tiếng cổ súy đã bị thực tế này bác bỏ.
Trong khoảng thời gian ngắn, kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ tại Mỹ bùng phát, vai trò can thiệp kinh tế đang dịch chuyển dần từ nhà nước quốc gia sang những "nhà nước quốc tế" như nhóm G7, Nghị viện châu Âu, G20, IMF, WB. Tư bản tài chính và các chính sách tiền tệ được nhân bội sức mạnh bởi tính quốc tế hóa ngày càng vừa là nguồn gốc, vừa là giải pháp chủ yếu của các chính phủ và liên minh các chính phủ tìm cách mở đường thoát ra khỏi khủng hoảng, cả ở cấp độ quốc gia, cũng như trên phạm vi thế giới.
Vì sao vậy?
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, xuất hiện cái gọi là "hiệu ứng của cải". Có tới khoảng 40% tài sản các hộ gia đình và 60% các quỹ trợ cấp trong các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu được đầu tư vào thị trường chứng khoán. Với những quan hệ dây chuyền phức tạp, một sự đổ vỡ, thậm chí từ thị trường của một nước, sẽ tạo ra chuỗi bùng nổ, đổ vỡ nhanh, mạnh trên diện rộng, lan đến các trung tâm, thông qua các kênh nợ nần và lưu thông tự do trên thị trường vốn, thị trường hàng hóa và dịch vụ quốc tế.
Chỉ trong năm 2007, tổng giá trị tín dụng bị đổ vỡ đã lên tới 60.000 tỷ USD, gần bằng tổng GDP của cả thế giới. Khi đó, "hiệu ứng của cải" có khả năng biến suy giảm thị trường (chẳng hạn, thị trường bất động sản, thị trường hàng điện tử, v.v...) thành suy giảm kinh tế, giảm nhu cầu nhập khẩu và sự bỏ chạy của vốn đầu tư... tạo ra lực cản cực mạnh cản trở sự vận động tiến lên một cách bình thường của cỗ máy kinh tế các doanh nghiệp và quốc gia.
Ðặc biệt, do "tự do hóa thị trường" một cách cực đoan đã dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ nền dịch vụ. Và, điều nguy hiểm cho nền kinh tế là ở chỗ, chiếm tỷ trọng không nhỏ là các dịch vụ tài chính - ngân hàng và thị trường vốn. Do toàn cầu hóa các công nghệ giao dịch và thương mại quốc tế được thúc đẩy quá mức bởi sự tự do hóa, thương mại hóa và tư nhân hóa các hoạt động kinh doanh - đầu tư theo cơ chế thị trường mở (kể cả mua, bán nợ), và cũng như do sự thừa nhận và gia tăng ráo riết các hoạt động đầu cơ trên thị trường tài chính, tiền tệ nên dẫn đến các thị trường tài chính ngày càng đóng vai trò động lực và tấm gương hội tụ, phản chiếu toàn bộ sự nhạy cảm, trực tiếp và tập trung nhất đời sống kinh tế vĩ mô cũng như vi mô, quốc gia cũng như quốc tế. Chính sự tự phát của đầu cơ thị trường, được hỗ trợ bởi thị trường tài chính ngày càng có quy mô toàn cầu từ điểm bùng phát ở thị trường tài chính Mỹ đã tạo ra chuỗi bùng nổ, đổ vỡ nhanh, mạnh trên diện rộng toàn thế giới.
Sự bán tháo hoặc bỏ chạy của vốn đầu tư, nhất là các dòng vốn đầu tư quốc tế, đã khuấy động đến cực đại những dao động thị trường, làm bùng phát những chuỗi đổ vỡ thị trường theo kiểu dây chuyền giữa các thị trường, các quốc gia theo hiệu ứng domino (con nợ - chủ nợ...). Ðổ vỡ tài chính - tiền tệ kéo theo suy giảm kinh tế, thể hiện rõ nhất ở sự ứ đọng hàng hóa, suy giảm các chỉ tiêu phát triển kinh tế; sự trồi sụt mạnh các chỉ số giao dịch trên thị trường chứng khoán và thị giá các đồng tiền quốc gia và quốc tế; cầu thị trường trong nước và quốc tế trì trệ, nhập khẩu co lại, còn xuất khẩu cũng không tăng do suy giảm khả năng thanh toán của các bên liên quan; giá cả sụt giảm chung theo kiểu bắc cầu; sản xuất suy giảm, thất nghiệp gia tăng... Khủng hoảng kinh tế thật sự có thể nổ ra và sức phá hoại của nó nhiều khi vượt quá mọi dự báo.
Ở những nước yếu hơn, các đặc điểm này càng bộc lộ rõ nét. Một điểm cần nhấn mạnh rằng, trong vô số các chấn động kinh tế thị trường đủ loại hiện nay, thì cuộc khủng hoảng tài chính bao giờ cũng có tính đặc thù và nguy hại nhất, vì nó khó dự báo chính xác và khó chống đỡ một cách có hiệu quả, do chúng thường gắn với những bí mật kinh doanh và hiện tượng đầu cơ bởi tự do hóa thị trường rất khó kiểm soát.
Có thể khẳng định rằng, chính bản thân những khuyết tật và lỗ hổng hiện hành trong hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên bộ phận chủ yếu nhen nhóm và truyền dẫn những xung lực của khủng hoảng, với gia tốc cực nhanh, mang tính phá hoại ghê gớm nhất trên quy mô toàn cầu.
Khi xảy ra khủng hoảng, tư bản quốc tế sẽ tự do rút chạy, dồn đến ẩn nấp và tiếp tục hoạt động tại những nơi khả dĩ an toàn hơn, đang có thuận lợi thị trường hơn, cho phép nước tiếp nhận dòng vốn tháo chạy này có những động lực mới cho sự phát triển của mình, nhưng lại làm tăng vọt độ sâu sắc hậu quả của khủng hoảng tại nơi xảy ra, do tư bản đột ngột ra đi kiểu lũ cuốn. Nói cách khác, chính sự phát triển vô hạn độ khả năng tích tụ, dồn nén, vận chuyển những năng lực tài chính toàn cầu cho các hoạt động đầu tư kinh doanh quốc gia và quốc tế, trong khi thiếu một cơ chế quốc tế giám sát an toàn cần thiết cho những hoạt động này, lại được khuếch đại thêm bởi nhu cầu thị trường vô cùng linh hoạt, vòng đời sản phẩm rút ngắn hơn và thông tin thị trường chưa được coi trọng phát triển đúng mức, đồng thời chế độ tỷ giá giữa các nước vừa có sự khác biệt nhau, vừa thiếu "chuẩn" điều chỉnh, ngày càng trở thành đầu mối của những chấn động kinh tế trong xã hội hiện đại.
Thực tế đã rõ, để chống khủng hoảng tài chính và chống đỡ với đà suy thoái kinh tế, không thể không cần đến "bàn tay Nhà nước". Chính phủ các nước ngày càng tuân theo công thức: một là, mở rộng nhu cầu xã hội, thông qua nới lỏng chính sách tài chính - tín dụng; hai là, khai thác thị trường quốc tế; ba là, điều chỉnh chuyển hướng năng lực sản xuất và cơ cấu sản phẩm cung ứng để phù hợp cầu hoặc kích thích lượng cầu mới có khả năng thanh toán cao... Hướng thứ nhất sẽ kéo theo sự gia tăng mạnh các khoản nợ công và tư, sự bấp bênh và nhạy cảm của hệ thống tài chính - tín dụng quốc gia và quốc tế... Hướng thứ hai và hướng thứ ba ngày càng được các nước lựa chọn nhiều hơn. Thành thử, có thể thấy, quốc tế hóa, toàn cầu hóa và tri thức hóa nền kinh tế vừa là hướng phát triển và lối thoát tự nhiên hữu hiệu nhiều triển vọng nhất, vừa là hệ quả trực tiếp của những cố gắng chủ quan tìm kiếm các giải pháp tối ưu chống khủng hoảng chu kỳ kinh tế.
Ở Việt Nam, trong tiến trình đổi mới hơn 20 năm qua đã trải nghiệm những thăng trầm của khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng tài chính. Bài học lớn được rút ra là bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân.
Lãnh đạo công cuộc đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, Ðảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai năm gia nhập WTO, hội nhập sâu và toàn diện vào kinh tế thế giới, nhất là từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, đối phó với lạm phát và thiên tai, vai trò của Nhà nước được đổi mới và tăng cường.
Thực hiện những kết luận của Bộ Chính trị, Chính phủ triển khai hàng loạt các giải pháp đồng bộ. Vì vậy, từ cuối năm 2008, áp lực lạm phát, thâm hụt thương mại và thanh toán có dấu hiệu giảm bớt, dự trữ ngoại tệ đã có sự ổn định trở lại, thị trường bất động sản phục hồi dần, mở rộng các mặt hàng xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp) rất khả quan; động lực và uy tín "thương hiệu Việt Nam" đang ngày càng được củng cố trong sự nhìn nhận và lựa chọn của thế giới. Alan Greenspan, nguyên Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ, nhận xét: Chính phủ Việt Nam đã đi đúng hướng trong việc áp dụng 8 nhóm giải pháp thực hiện kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
Cần tuân thủ quy trình quản lý Nhà nước về giá theo nguyên tắc thị trường, nhằm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, ngăn chặn các hành vi lạm dụng và độc quyền, đầu cơ, bán phá giá và các gian lận thương mại khác. Trước mắt, cần nâng cao năng lực và hiệu quả thực tế của công tác giám sát, kiểm soát và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có liên quan, ngăn chặn hiện tượng lạm dụng trục lợi cá nhân, thậm chí biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp, phường hội...
Coi trọng hơn nữa việc chống tham nhũng, Nhà nước cần xây dựng một cơ chế chống tham nhũng kiên quyết và hiệu quả.
Trong báo cáo về tình hình kinh tế tháng 9 vừa qua của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBSGTCQG), cơ quan này nhấn mạnh trong những tháng còn lại của năm 2012 Chính phủ cần tính toán và có những bước đi thận trọng trong việc điều chỉnh giá một số hàng hóa, dịch vụ. Trước mắt tạm thời chưa điều chỉnh thêm giá trong tháng 10 để củng cố tâm lý thị trường.
Các nhà kinh tế của IMF đã nghiên cứu lịch sử tất cả các thảm họa tài chính toàn cầu và khu vực từ năm 1970-2011. Tuy nhiên cũng còn có một điềm báo khác nữa – đa phần các cuộc khủng hoảng đều diễn ra vào năm trước bầu cử ở những nước lớn. Mà năm nay, ai cũng biết rằng, sẽ có cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ và sự thay đổi chính phủ theo kế hoạch ở Trung Quốc.
Dường như đang xuất hiện những thái độ lạc quan thái quá khi nhiều người đã tuyên bố tăng giá, bơm tiền vẫn không lo lạm phát. Trong khi những bài học về lạm phát trước đây do tiền tệ và giá cả vẫn còn nguyên giá trị.
Mạng phân tích tin Oxford Analytica ngày 4-12 cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay mang những đặc điểm chưa từng có. Cuộc khủng hoảng lần này chủ yếu lan rộng qua con đường tài chính và trong bối cảnh vai trò truyền thống của khu vực tư nhân bị tan vỡ, các chính phủ đã phải can thiệp bằng những biện pháp mạnh mẽ, đồng thời nhu cầu trợ giúp từ các tổ chức đa phương tăng lên.
Thụy Sỹ, quốc gia châu Âu theo chủ nghĩa biệt lập về kinh tế, với nền kinh tế tập trung vào lĩnh vực tài chính và các môn thể thao mùa đông, đang mất dần địa vị “pháo đài tiền tệ” của mình, khi mà khủng hoảng tín dụng len lỏi khắp thế giới.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản vừa tổ chức cuộc họp khẩn cấp về chính sách tiền tệ để thảo luận cách giúp các hãng trong nước tăng vốn hoạt động.
Quốc hội trong kỳ họp vừa qua đã tán thành mục tiêu kiềm chế giá tiêu dùng tăng dưới 15% trong năm 2009.
Sau khi tính toán kỹ lưỡng, giới chuyên gia kinh tế vừa dự đoán nước Mỹ cần khoảng 2.000 tỷ USD để vực dậy nền kinh tế đang suy sụp.
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến tài sản của những người giàu nhất thế giới vơi đi đáng kể. Người mất nhiều nhất lên tới 32,5 tỷ USD. Dưới đây là danh sách 10 tỷ phú mất nhiều tiền nhất.
Cuối tuần trước, Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel đã công bố một Chiến lược toàn diện nhằm giải quyết những điểm yếu cơ bản được bộc lộ trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua.
Trong một số cuộc hội thảo, trên một số phương tiện thông tin đại chúng, trên diễn đàn Quốc hội và kỳ họp mới đây của Chính phủ, các cụm từ "lạm phát", "thiểu phát" và "giảm phát" đã xuất hiện. Đây là những vấn đề rất quan trọng, bởi đó không chỉ là sự đánh giá, mà còn là căn cứ để hoạch định chính sách vĩ mô. Nhưng hiện có nhiều ý kiến khác nhau.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.