Các phương pháp đối phó với khủng hoảng tài chính của Nga khác với hầu hết các nước khác. Đó là lý do tại sao mà cái giá phải trả cho cuộc khủng hoảng của Nga lại khác so với các nước khác.
Tại các nước khác, Chính phủ bơm tiền cho hầu hết các thể chế tài chính nhằm đảm bảo sự ổn định cho các ngân hàng, công ty và củng cố niềm tin của người dân. Nhưng tại Nga, Chính phủ lại thiên về việc bơm tiền trực tiếp vào ngân hàng. Tại sao vậy?
Khoảng 9.400 tỷ USD - hay 15% tổng GDP toàn cầu - đã được thế giới chi ra để đối phó với khủng hoảng. Tháng 9/2008, Nga phát động một chiến dịch quy mô lớn hỗ trợ tài chính cho các công ty và ngân hàng với ước tính trị giá 6.000 tỷ Rub (gần 217 tỷ USD) - hay chiếm 13,9% GDP. Số ngân sách này còn chưa tính đến số tiền từ các khu vực trong nước.
Số tiền đầu tư khổng lồ này gây ra một suy nghĩ sai lầm rằng Nga không hề có một cuộc khủng hoảng cơ bản nào. Giống như các nước khác trên thế giới, lý do cơ bản đằng sau cuộc khủng hoảng tài chính tại Nga là việc bơm quá nhiều tiền vào thị trường chứng khoán.
Chương trình bình ổn tài chính trong 23 nền kinh tế phát triển nhất thế giới dựa trên 4 loại đầu tư: 49% quỹ hỗ trợ được đầu tư cho việc đảm bảo của nhà nước về số nợ của ngân hàng, 15% bơm tiền cho các thể chế tài chính, 10% để mua các tài sản xấu và 21% trong các biện pháp khác chủ yếu nhằm thúc đẩy kinh tế như cắt giảm thuế, phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao các chương trình xã hội.
Tuy nhiên, Nga lại không đầu tư một đồng nào vào việc đảm bảo của Chính phủ về các khoản nợ của ngân hàng và đầu tư 84% cho tái cấp vốn. Tại sao cách tiếp cận của Nga lại khác với các nước khác như vậy?
Tại Nga, cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại được gọi là “cuộc khủng hoảng thanh khoản”. Dựa vào lối suy nghĩ cố hữu, có lẽ đây là lời giải thích thuyết phục nhất. Tuy nhiên, có một điều khiến người ta nghi ngờ rằng đây liệu có phải là cuộc khủng hoảng do những vấn đề thanh khoản hay không:
Mãi tháng 8/2008, bảng cân đối tài sản mới chạy thông suốt. Điều này có nghĩa rằng hệ thống ngân hàng đã có đủ thanh khoản cho hết tháng 9 khi một lượng tiền khổng lồ đổ vào nó. Do vậy bảng cân đối tài sản tăng lên 732,4 tỷ Rub. Đến tháng 10/2008, bảng cân đối này lại giảm xuống còn 580-590 tỷ Rub - bằng với bảng cân đối của tháng 5/2008.
Từ đây dấy lên những nghi ngờ về vấn đề thanh khoản là nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng. Tài sản của các tổ chức cho vay lớn nhất của Nga và 30 ngân hàng lớn nhất khác đã tăng trung bình lên 30-50% trong 8 tháng đầu năm 2008. Nói cách khác, không có vấn đề nào về tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng nói chung, và bản thân nó không phải là chỉ số để đo “sức khỏe” của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, Chính phủ Nga lại quyết định rằng thanh khoản là vấn đề cốt lõi của khủng hoảng và bắt đầu bơm tiền vào các ngân hàng.
Không giống như Nga, cộng đồng quốc tế nhanh chóng nhận ra rằng lý do chính đằng sau cuộc khủng hoảng này là một “cuộc khủng hoảng niềm tin”.
Một cuộc khủng hoảng niềm tin nên được giải quyết bằng các biện pháp như bảo hiểm, an ninh và đảm bảo. Các nước khác đã bơm hàng tỷ USD để giải quyết “cuộc khủng hoảng niềm tin”: Mỹ bơm 1739 tỷ USD, Đức bơm 539 tỷ USD, 393 tỷ USD với Anh, Canada, Italy và Australia đều cam kết đảm bảo 100% số tiền gửi ngân hàng. Chính phủ Đức cam kết không để một người dân nào phải mất thậm chí là một đồng euro tiết kiệm trong ngân hàng.
Chiến lược của Nga chống khủng hoảng thì hoàn toàn khác. Chính phủ Nga không đảm bảo các khoản tiền gửi trong ngân hàng mà chỉ bơm tiền vào các ngân hàng đó. Kết quả là, vấn đề niềm tin của dân Nga lại được pha trộn với với chiến lược chống khủng hoảng. Điều này có nghĩa là Nga sẽ phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn các nước khác để vượt qua khủng hoảng.
Nga phải rút ra kết luận từ cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại để tránh lỗi lầm đang mắc phải. Nga phải tạo ra một hệ thống cảnh báo các nhà chức trách về việc bơm quá nhiều tiền vào khủng hoảng. Không thể tin tưởng vào việc các doanh nghiệp có thể nhìn thấy trước những nguy hiểm của việc bơm quá nhiều tiền vào thị trường và kịp thời ngăn chặn xu thế đó. Trách nhiệm phải thuộc về các nhà lập pháp trong nước và quốc tế. Cuối cùng, Nga cần một cơ chế ngăn cản hiện tượng bơm tiền quá nhiều vào thị trường.
Trong báo cáo về tình hình kinh tế tháng 9 vừa qua của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBSGTCQG), cơ quan này nhấn mạnh trong những tháng còn lại của năm 2012 Chính phủ cần tính toán và có những bước đi thận trọng trong việc điều chỉnh giá một số hàng hóa, dịch vụ. Trước mắt tạm thời chưa điều chỉnh thêm giá trong tháng 10 để củng cố tâm lý thị trường.
Các nhà kinh tế của IMF đã nghiên cứu lịch sử tất cả các thảm họa tài chính toàn cầu và khu vực từ năm 1970-2011. Tuy nhiên cũng còn có một điềm báo khác nữa – đa phần các cuộc khủng hoảng đều diễn ra vào năm trước bầu cử ở những nước lớn. Mà năm nay, ai cũng biết rằng, sẽ có cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ và sự thay đổi chính phủ theo kế hoạch ở Trung Quốc.
Dường như đang xuất hiện những thái độ lạc quan thái quá khi nhiều người đã tuyên bố tăng giá, bơm tiền vẫn không lo lạm phát. Trong khi những bài học về lạm phát trước đây do tiền tệ và giá cả vẫn còn nguyên giá trị.
Cuộc khủng hoảng toàn cầu đã lan rộng từ lĩnh vực tài chính sang nhiều lĩnh vực kinh tế, đẩy thêm một số nền kinh tế lớn lâm vào suy thoái, hoặc mấp mé bờ vực suy thoái. Mặt khác, kinh tế toàn cầu ít có cơ hội phục hồi vào năm 2009.
Trong vòng sáu tháng tính đến hết tháng 9 vừa qua, 6 tập đoàn tài chính lớn nhất Nhật Bản đã phải chịu tổng thiệt hại 1.030 tỷ yên (hơn 10 tỷ USD) do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
Chính quyền của Tổng thống Mỹ G.Bush hôm 12.11 tuyên bố thay đổi các biện pháp thực hiện kế hoạch giải cứu thị trường trị giá 700 tỉ USD, theo đó sẽ không mua lại các CK xấu liên quan đến hoạt động cho vay thế chấp.
Xét trên bình diện tổng thể, ngoại trừ biệt lệ 2006, lạm phát từ năm 2004 trở lại đây luôn là vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế nước ta, đặc biệt là từ năm 2007 đến nay. Do vậy, việc ấn định mục tiêu này ở mức dưới 15% cho năm 2009 sắp tới là một sự tiếp nối lôgích.
Tại hội nghị Đầu tư quốc tế tại Việt Nam do Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế tổ chức chiều (11/11) tại TPHCM, một số diễn giả cho rằng Việt Nam đã được chuẩn bị tương đối tốt để vượt qua giai đoạn đầy khó khăn và thách thức sắp tới. Lạm phát có thể xuống một con số vào cuối năm 2009 thay vì ở mức 12%-14% như dự báo trước đây.
Theo Phó thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc Yi Gang, tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc có thể sẽ giảm xuống chỉ còn 3% trong năm 2009 so với mức ước tính 6,5% của năm 2008.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.