3. Một số vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu ICC và các quyền con người
Việc bảo đảm và thúc đẩy CQCN là trách nhiệm của mỗi quốc gia. Có thể nói rằng việc tham gia ICC là một trong những cách thức hữu hiệu cho việc nhận thức CQCN, tạo điều kiện cho sự đảm bảo và thúc đẩy CQCN. Là thành viên ICC thì quốc gia cần hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Do hoàn cảnh ở mỗi nước khác nhau nên cách tiếp cận về CQCN ở mỗi quốc gia ít nhiều có sự khác nhau. Chính vì vậy nên sự giao lưu, hợp tác về nhiều mặt, đặc biệt là sự đồng thuận trong các văn bản pháp lý quốc tế đa phương như Quy chế Rome là yêu cầu cần thiết và khách quan, tạo điều kiện cho CQCN được nhận thức và bảo vệ ở bất kỳ đâu trên thế giới. Việt Nam có hàng triệu người đang lao động và học tập tại nước ngoài, trong số này có cả những quốc gia có sự bất ổn lớn về chính trị như Iraq. ICC là thiết chế có thể bảo đảm được CQCN trong trường hợp họ trở thành nạn nhân của các tội phạm nguy hiểm thuộc thẩm quyền tài phán nếu như Việt Nam tham gia Quy chế Rome.
Từ việc nghiên cứu cơ chế bảo vệ CQCN của ICC trên các phương diện khác nhau, theo chúng tôi, có một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam như sau:
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế bảo vệ các quyền con người
Không thể phủ nhận rằng những nguyên tắc được thừa nhận chung trong các văn bản pháp lý quốc tế (công ước, hiệp ước, quy chế…) chính là những thành tựu mà cộng đồng quốc tế đã đạt được bằng lịch sử của chính mình. Những thành tựu này cũng chính là những chuẩn mực quốc tế có giá trị tham khảo cho bất cứ quốc gia nào. Hiện nay cơ hội đang mở ra cho các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam, tham gia ICC. Khi tham gia ICC, năng lực tố tụng tư pháp và hành chính tư pháp của quốc gia sẽ được tăng cường. Thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Quy chế Rome, chúng ta có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, nội luật hoá các chuẩn mực được quy định trong Quy chế Rome, những chuẩn mực được thừa nhận rộng rãi và là thành tựu quan trọng của lịch sử pháp luật quốc tế.
Trong giai đoạn xem xét gia nhập Quy chế Rome, Việt Nam phải tiến hành nghiên cứu Quy chế hết sức kỹ lưỡng bởi có như vậy mới đưa ra các kiến nghị, bổ sung, bãi bỏ hay ban hành một cách xác đáng những văn bản quy phạm pháp luật bởi những sửa đổi, bổ sung cần thiết lại nằm trong những văn bản pháp luật quan trọng và tương đối ổn định như Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Luật Tương trợ tư pháp… Qua nghiên cứu so sánh Quy chế Rome với hệ thống pháp luật cho thấy một số điểm hạn chế, không tương thích và cần hoàn thiện để bảo vệ tốt hơn CQCN, mà cụ thể là:
- Theo Điều 20 Quy chế Rome quy định nguyên tắc công minh, không xét xử hai lần đối với cùng một tội phạm, ICC không xét xử một cá nhân phạm tội về những tội mà người đó đã bị một toà án khác kết án hoặc tha bổng (trừ trường hợp vi phạm những thủ tục tố tụng được pháp luật quốc tế thừa nhận) và toà án khác cũng không xét xử một cá nhân phạm tội về những tội mà ICC đã kết án và tha bổng. Còn căn cứ vào BLHS Việt Nam năm 1999 quy định không một người phạm tội nào có thể chịu trách nhiệm hình sự hai lần về một tội phạm, khả năng Tòa án Việt Nam xét xử những cá nhân phạm tội đã được ICC tha bổng trước đó vẫn có thể xảy ra. Bởi vì, việc quy định tội danh, hình phạt giữa pháp luật hình sự nước ta và Quy chế Rome không đồng nhất mặc dù tính chất, mức độ hành vi phạm tội là như nhau.
- Về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, Điều 27 Quy chế Rome giải thích, việc tiến hành các hành vi tố tụng áp dụng đối với tất cả cá nhân bị coi là phạm tội mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử về địa vị pháp lý, kể cả các cá nhân được hưởng quy chế miễn trừ ngoại giao. Tuy nhiên, Điều 3, Điều 5, Điều 19 BLTTHS năm 2003, Điều 44 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân năm 2003, Điều 58 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2007) của Việt Nam lại có khác biệt. Cụ thể, đối với đại biểu Quốc hội, “không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội”; đối với đại biểu HĐND, “trong thời gian HĐND họp, nếu không được sự đồng ý của chủ toạ kỳ họp thì không được bắt giữ đại biểu HĐND”.
- Có khá nhiều điểm khác biệt giữa pháp luật hình sự Việt Nam với Quy chế Rome như vấn đề tội danh, loại và khung hình phạt, dẫn độ công dân, thi hành án, thẩm quyền điều tra của công tố viên, bắt khẩn cấp người phạm tội… Cũng có điểm khác biệt cơ bản giữa Quy chế Rome và pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề cá thể hoá trách nhiệm của người chỉ huy. Theo Điều 28 Quy chế Rome, người chỉ huy quân sự, người làm việc như chỉ huy quân sự hoặc cấp trên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm thuộc quyền tài phán của ICC ngay cả khi người này không phạm tội một cách độc lập hoặc với vai trò đồng phạm. Trong khi đó, chế định đồng phạm và các tội về phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh của BLHS năm 1999 chỉ quy định trách nhiệm của người chỉ huy khi người đó tham gia với tư cách độc lập hoặc với vai trò đồng phạm.
- Về quy định tội danh, Điều 5 Quy chế Rome quy định bốn loại tội phạm thuộc quyền tài phán của ICC: tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược. Trừ tội xâm lược còn nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa, còn lại các tội khác đã được định nghĩa rõ ràng tại các Điều 6, 7, 8 của Quy chế. BLHS Việt Nam 1999 chưa quy định tội diệt chủng. Ngoài ra về nội dung cũng chưa bao quát hết được các hành vi cụ thể được nhóm vào cùng một tội danh, chẳng hạn Điều 7 Quy chế Rome quy định 11 hành vi cấu thành của tội chống nhân loại, trong khi đó Điều 342 BLHS về tội chống loài người chỉ xác định 3 hành vi trong cấu thành (diệt chủng, diệt sinh, diệt môi trường) mà lại không đưa ra khái niệm cụ thể hơn cho từng hành vi này.
- Về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, Quy chế Rome quy định quyền im lặng của bị can, bị cáo, người bị tình nghi khi bị thẩm vấn, hỏi cung. Nghĩa là, họ có quyền không bắt buộc phải khai báo và sự im lặng của họ không được xem xét theo hướng bất lợi cho họ khi kết tội sau này tại phiên toà. Nếu các quy định trên bị vi phạm, ICC hoàn toàn có quyền không chấp nhận các chứng cứ thu thập được từ việc vi phạm. Không những thế, để tránh tình trạng lạm dụng quyền lực cũng như để bảo vệ quyền con người, gần như tất cả các biện pháp điều tra, cưỡng chế (bắt, triệu tập…) đều phải có sự phê chuẩn của Hội đồng tiền xét xử ICC trên cơ sở đề nghị của công tố viên. Nhưng, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam mới đang nghiên cứu xây dựng chế định này.
- Về chứng cứ trong tố tụng hình sự, Quy chế Rome cho phép công tố viên được đưa ra bằng chứng dưới hình thức ghi âm, ghi hình của nhân chứng thông qua các phương tiện điện tử. Tuy nhiên, BLTTHS Việt Nam lại quy định việc lấy lời khai của nhân chứng bắt buộc phải bằng biên bản và khi cần thiết, toà án có thể triệu tập nhân chứng tham gia phiên toà. Hơn nữa, pháp luật nước ta cũng chưa quy định việc ứng dụng công nghệ trong các hoạt động tố tụng.
- Về tương trợ tư pháp: i) Một trong những nghĩa vụ của quốc gia thành viên của ICC là hỗ trợ tư pháp về hình sự. Tuy nhiên cả BLTTHS 2003 và Luật Tương trợ tư pháp không có quy định nào về việc hợp tác giữa Việt Nam với bất kỳ tòa án quốc tế nào, kể cả với ICC. Điều này hạn chế Việt Nam trong việc tham gia bảo vệ công lý và CQCN ở tầm quốc tế; ii) Điều 89 Quy chế Rome quy định khi có yêu cầu thì quốc gia thành viên (hoặc quốc gia không phải thành viên nhưng có thỏa thuận về hợp tác dẫn độ) dẫn độ người phạm tội cho ICC để truy tố, xét xử. Trong khi đó cả BLTTHS, Luật Tương trợ tư pháp và Luật Quốc tịch của Việt Nam đều không cho phép dẫn độ công dân Việt Nam cho nước ngoài; iii) Điều 92 Quy chế Rome quy định ICC có thể yêu cầu bắt khẩn cấp người phạm tội khi chưa có văn bản yêu cầu chính thức. Tuy nhiên việc bắt khẩn cấp trong tương trợ tư pháp hình sự lại chưa được quy định trong Luật Tương trợ tư pháp do e ngại vấn đề bồi thường thiệt hại do bắt oan sai, do vậy cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam sẽ không có căn cứ pháp lý để thực hiện việc bắt khẩn cấp theo yêu cầu của ICC.
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, năng lực hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu cầu nêu trong Quy chế Rome. Cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan trong lĩnh vực hợp tác và tương trợ tư pháp vẫn còn yếu kém và không chặt chẽ, hiệu quả hoạt động chưa cao1.
Tham gia vào quá trình tố tụng của Việt Nam không chỉ có Tòa án, mà còn các cơ quan khác như Viện kiểm sát thực hành chức năng công tố; hệ thống cơ quan điều tra đặt tại một số cơ quan của Chính phủ có nhiệm vụ cùng Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố tại giai đoạn điều tra. Ngoài ra còn một số cơ quan bổ trợ tư pháp cũng tham gia quá trình tố tụng như tổ chức luật sư, giám định. Trong khi đó, cơ cấu, tổ chức và điều hành của ICC (Phần IV Quy chế Rome) quy định Tòa án, ngoài Ban chánh án, Bộ phận phúc thẩm, Bộ phận sơ thẩm còn có Bộ phận dự thẩm, Văn phòng công tố, Văn phòng lục sự. Cơ cấu tổ chức này khác với cơ cấu các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam. Vấn đề này có thể khắc phục được, vì bộ máy tư pháp của Nhà nước Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp, theo hướng chuyển Viện Kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra; đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa2, mà đích cuối cùng là bảo vệ và bảo đảm CQCN. Tuy nhiên, tiến trình cải cách này cần phải có thời gian.
3.2. Tuyên truyền, giáo dục và đào tạo quyền con người
Chúng ta đang có trong tay món quà quý giá và nhân đạo do các quốc gia trao tặng và cam kết thực hiện thông qua các văn bản pháp lý quốc tế, đó là CQCN. Thật đáng tiếc khi mà hàng triệu con người trong suốt cả cuộc đời không hề biết rằng mình là chủ nhân của những quyền đó. Giáo dục nhân quyền là những hoạt động giảng dạy, tập huấn và phổ biến thông tin về quyền con người, nhằm xây dựng một nền văn hóa nhân quyền trong đó hướng tới: (i) Tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người; (ii) Phát triển đầy đủ nhân phẩm và ý thức về nhân phẩm của con người; iii) Thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa các quốc gia, các nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ; (iv) Tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham gia một cách hiệu quả vào các hoạt động của xã hội, và (v) Hỗ trợ các hoạt động của LHQ về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế3. Giáo dục quyền con người thông qua chuyển giao kiến thức, xây dựng kỹ năng và hình thành quan điểm được coi là nền tảng của một nền văn hóa đích thực về phòng ngừa4.
Là tổ chức quốc tế tiên phong trong hoạt động thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, LHQ đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục nhân quyền, xem đó như là một biện pháp cốt yếu và một chiến lược hiệu quả để ngăn chặn các vi phạm nhân quyền cũng như để xây dựng các xã hội bình đẳng, tự do và hòa bình5. Để phổ biến và vận động cho hoạt động giáo dục nhân quyền trên toàn thế giới, Đại hội đồng LHQ đã thông qua một Nghị quyết số 48/127 ngày 20/12/1993 (A/RES/48/127) quy định lấy giai đoạn 1995-2004 là Thập kỷ giáo dục nhân quyền của Liên hợp quốc6. Tiếp theo đó, từ 1994 đến 2003, Đại hội đồng LHQ còn thông qua một loạt nghị quyết khác đề cập đến những vấn đề cụ thể trong việc triển khai thực hiện Thập kỷ Giáo dục nhân quyền, bao gồm các Nghị quyết A/RES/49/184, A/RES/50/173, A/RES/50/177, A/RES/51/104, A/RES/52/127,A/RES/53/153,A/RES/54/161, A/RES/55/94, A/RES/56/167, A/RES/57/2127.
Trong khoảng hai thập kỷ gần đây, giáo dục nhân quyền là vấn đề thu hút sự quan tâm thường xuyên của cộng đồng quốc tế. Nhiều tổ chức quốc tế, trong đó đặc biệt là LHQ và UNESCO, đã có những chương trình hành động lớn và rộng khắp trên thế giới về vấn đề này. Ở phạm vi quốc gia, giáo dục nhân quyền cũng đã trở thành một phần trong chương trình giáo dục của nhiều nước, tuy có sự khác nhau về phạm vi, mức độ và cách thức tổ chức hoạt động. Trên thực tế, giáo dục nhân quyền, xét ở góc độ nhất định, từ lâu đã được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, dưới hình thứcgiáo dục đạo đức công dân. Gần đây, hoạt động giáo dục nhân quyền đã được tăng cường thêm một bước, xét cả về nội dung và phạm vi tổ chức. Tương tự như các quốc gia khác trên thế giới, giáo dục nhân quyền đã và đang thực hiện ở cả trong và ngoài hệ thống nhà trường ở Việt Nam. Đây là một tiền đề quan trọng cho việc thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian tới8.
Lịch sử nhân loại, bối cảnh toàn cầu cho thấy việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng thế giới đối với những hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm đến những giá trị cao quý nhất của xã hội văn minh - con người - là vấn đề mang tính cấp thiết. Để thực hiện được điều này, ngoài các biện pháp về pháp luật và quản lý nhà nước, giáo dục thông qua chương trình nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học luật, khoa luật, các trường đào tạo luật sư và thẩm phán là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu kết cấu chương trình đào tạo đại học9và sau đại học luật tại Việt Nam cho thấy có thể đưa nội dung học về ICC và quyền con người theo các phương án sau:
- Nội dung ICC và CQCN được ghi nhận ở một chương độc lập trong giáo trình Luật Hình sự quốc tế. Hiện nay giáo trình Luật Hình sự quốc tế đã có nhưng chưa có một chương độc lập về ICC và việc bảo vệ CQCN;
- Nội dung ICC và việc bảo vệ CQCN được thể hiện trong một chương độc lập của giáo trình giáo dục CQCN. Hiện nay giáo trình này mới được thể hiện trên ý tưởng và đang được triển khai;
- Nội dung ICC và việc bảo vệ CQCN với tính chất là một môn học, được biên soạn trong tập bài giảng hoặc có thể nâng lên thành một giáo trình riêng;
- Nội dung ICC và việc bảo vệ CQCN được giảng dạy cho các sinh viên đại học, học viên sau đại học chuyên ngành tư pháp hình sự với tính chất là một chuyên đề.
Việc giáo dục CQCN theo các nội dung về ICC dù theo cách thức, phương án nào cũng cần phải thể hiện được CQCN trong nội dung sau: 1) Tình hình bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế, trừng trị tội phạm chiến tranh từ sau chiến tranh thế giới thứ hai; 2) Quá trình hình thành ICC; 3) Mối quan hệ giữa ICC với các thiết chế bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế; 4) Thẩm quyền tài phán đối với các loại tội phạm và thẩm quyền theo thời gian của ICC; 5) Các nguyên tắc được quy định trong Quy chế Rome và những điểm tương đồng với luật hình sự quốc gia; 6) Điều kiện thực hiện quyền tài phán của ICC; 7) Thủ tục tố tụng: thông báo tội phạm, thụ lý, điều tra, truy tố, xét xử, kháng cáo; 8) Thi hành án.
Hoạt động nghiên cứu cũng như giáo dục về quyền con người ở nước ta hiện còn nhiều hạn chế. Các nội dung về quyền đã được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông, tuy nhiên dung lượng còn ít, chủ yếu trong môn học “Đạo đức” và “Giáo dục công dân”. Tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, môn học về nhân quyền mới được giảng dạy có tính thí điểm để rút kinh nghiệm cho các sinh viên năm cuối như một môn học chuyên ngành. Theo chúng tôi, việc giáo dục nhân quyền là cần thiết cho tất cả các đối tượng trong cộng đồng, rất phù hợp với truyền thống nhân đạo của dân tộc, sẽ phát triển nhanh chóng và đem lại hiệu quả thiết thực cho xã hội nếu được chúng ta quan tâm đúng mức10.
Ngoài hoạt động giáo dục trong hệ thống nhà trường, các hoạt động giáo dục nhân quyền bên ngoài xã hội cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao nhận thức về nhân quyền cho các thành viên của xã hội, bởi các lý do sau: 1) việc các hoạt động giáo dục bên ngoài xã hội có tính chuyên nghiệp cao do được tiếp cận đa phương diện và linh hoạt chứ không cứng nhắc như chương trình học trong trường; 2) đối tượng giảng dạy là các chuyên gia trong và ngoài nước có nhiều thực tiễn; 3) đối tượng được giáo dục đa dạng các thành phần, trong đó có những nhóm rất quan trọng như quan chức nhà nước, cán bộ xã hội, nhân viên của các tổ chức quốc tế, các đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, cán bộ an ninh, cán bộ quản lý trại giam, người làm công tác xã hội; 4) có thể thực hiện đan xem với hoạt động giáo dục nhân quyền trong hệ thống giáo dục quốc dân; 5) nội dung đa dạng và mang tính thực tế hơn, bao gồm các vấn đề lý luận về quyền con người nói chung, các tiêu chuẩn quốc tế và các quy định quốc gia về quyền con người; 6) đa dạng về chủ thể tổ chức như các bộ ngành, tổ chức xã hội, cơ sở đào tạo trên cơ sở tổ chức độc lập hoặc kết hợp với các nhà tài trợ nước ngoài (các tổ chức quốc tế, các cơ quan viện trợ quốc gia, các đại sứ quán các nước…); 7) tài liệu phong phú từ nhiều nguồn khác nhau, thiết bị giảng dạy hiện đại do các nhà tài trợ cung cấp.
Tiến trình của một quốc gia đi đến việc tham gia Quy chế Rome chính là quá trình tuyên truyền, giáo dục nhận thức và tầm quan trọng của ICC đối với việc bảo vệ CQCN. Chính vì vậy, các hoạt động thúc đẩy cho quá trình tham gia Quy chế Rome chính là việc củng cố ý chí chính trị, cũng như giáo dục, tuyên truyền và đào tạo về CQCN. Những hoạt động đó là:
- Nâng cao kiến thức và năng lực cho cán bộ công chức và các cơ quan của Việt Nam trong lĩnh vực luật hình sự quốc tế cũng như về ICC;
- Nghiên cứu quy chế Rome và phổ biến rộng rãi hơn về ICC trên phạm vi cả nước thông qua việc đánh giá và giải thích các hướng dẫn về Quy chế Rome;
- Tiếp tục phổ biến các ấn phẩm về ICC cho tất cả các đối tượng có liên quan, kể cả các thành viên của Quốc hội, thẩm phán, kiểm sát viên, cán bộ cảnh sát và quân đội, luật sư, quan chức chính phủ cấp trung ương và địa phương;
- Ban hành văn bản pháp luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để tiến tới tham gia Quy chế Rome và tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác với ICC.
- Vận động hành lang với Chính phủ nhằm thuyết phục phê chuẩn Quy chế Rome và nội luật hoá các quy định của Quy chế Rome vào hệ thống pháp luật trong nước.
(1) Xem: Bộ Tư pháp, Báo cáo “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Tương trợ tư pháp”, tháng 4/2006, tr. 50.
(2) Xem: Đỗ Ngọc Quang, Một số thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam gia nhập quy chế Rome trong bối cảnh hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học. Nxb. Tư pháp. Hà Nội. 2007, tr.287.
(3)Nghị quyết A/52/469/Add.1 ngày 20/10/1997 của Đại hội đồng LHQ, đoạn 11. Xem trong http://www.unhchr.ch/huridocda/huridoca.nsf/(Symbol)/A.RES.48.127.En?OpenDocument.
(4)Xem: Tìm hiểu về quyền con người (Tài liệu hướng dẫn về giáo dục quyền con người). Chủ biên: Wolfgang Benedek (tài liệu dịch). Nxb Tư pháp. Tr. 32.
(5) Pocket Guide on Basic Human Rights Instruments
(6) Human Rights - A Basic Handbook for UN Staff
(7) Human Rights and Social Work: A Manual for Schools of Social Work and the Social Work Profession
(8) Xem: http://crights.org.vn/home.asp?id=80&langid=1
(9) Tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, hai môn học “Lý luận về nhân quyền” và “Bảo vệ quyền con người bằng hệ thống tư pháp hình sự” bắt đầu được đưa vào giảng dạy từ tháng 1/2008 cho sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Lý luận-Hiến pháp-Hành chính và chuyên ngành Tư pháp hình sự với thời lượng là 30 tiết/môn.
(10) Xem: Nguyễn Đăng Dung. Phỏng vấn đăng trên trang 5, Báo Pháp luật Việt Nam số 257 (3.665) ngày 26/10/2008)
(Theo TS. Nguyễn Khắc Hải - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội // Báo Nghiên cứu Lập Pháp Online)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com