Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Kinh tế thị trường là gì? (7): Tài chính trong nền kinh tế thị trường

Tài chính trong nền kinh tế thị trường


Trong các thị trường hàng hóa, dịch vụ và lao động, giá cả được thể hiện dưới hình thái tiền tệ nào đó, hay gọi là đồng tiền. Nhưng chính tiền tệ cũng được mua bán trong các nền kinh tế thị trường, bởi vì một số người muốn dành tiền để sử dụng trong tương lai, trong khi một số người khác – bao gồm cả các nhà doanh nghiệp – muốn vay tiền để sử dụng ngay. Cái giá để được quyền sử dụng số tiền đó – gọi là lãi suất – được xác định trong các thị trường trao đổi tài chính.
 


Nhìn rộng ra, các ngân hàng và các công ty khác trong lĩnh vực tài chính của nền kinh tế thị trường là những nhân tố quan trọng nhất nối kết những người có các nguồn lực cần tiết kiệm với những người có cách sử dụng có lợi nhất các nguồn quỹ đó, và do đó sẵn sàng trả lãi để được sử dụng khoản tiền đó. Trong các thị trường này, các quyết định về cách thức và địa điểm đầu tư tài chính là không tập trung, cũng giống như các quyết định về sản xuất và tiêu dùng là phân tán trong thị trường hàng hóa và dịch vụ.



Mua một ngôi nhà
 


Hãy quan sát gia đình Robert và Maria một vài năm sau thời điểm họ thảo luận về việc thay đổi nghề nghiệp và dự định học thêm. Thực tế, Maria đã nhận một công việc hành chính trong hệ thống trường học, và Robert theo học một khóa đào tạo nâng cao về lập trình máy tính và tìm được việc làm trong một lĩnh vực mới mẻ và phát triển. Kết quả là Robert và Maria đã có thu nhập cao hơn trước và có thể để dành tiền để thực hiện một khoản chi lớn nhất mà hầu hết các cá nhân bình thường đều làm: mua một ngôi nhà.
 


Như vậy vai trò của các tổ chức tài chính như ngân hàng là rất quan trọng. Ngân hàng thực hiện hai chức năng có liên quan với nhau: Một mặt, họ nhận tiền gửi từ những người như Robert và Maria – những người tiết kiệm tiền muốn giữ tiền của họ ở một nơi an toàn và nhận lãi suất từ khoản tiền đó. Mặt khác, họ cho vay đối với những người có thể chứng minh khả năng thanh toán được khoản vay đó sau một thời gian. Tất nhiên, những người vay tiền và cho vay không chỉ là những cá nhân mà còn bao gồm các công ty tư nhân muốn tiết kiệm tiền hay muốn vay tiền để đầu tư mới hoặc mở rộng kinh doanh. 
 


Trong một nền kinh tế thị trường, các cá nhân như Robert và Maria có thể đóng vai trò người gửi tiền và người đi vay vào những thời điểm khác nhau. Để thu hút tiền của họ, ngân hàng chào mời những người gửi tiền như Robert và Maria một mức lãi suất nhất định cạnh tranh với các ngân hàng và quỹ tiết kiệm khác. Bây giờ, Robert và Maria lại đến ngân hàng với tư cách là người đi vay tiềm năng, tìm kiếm một khoản vay giúp họ có thể mua được một ngôi nhà. Nếu ngân hàng thấy rằng họ có thu nhập đủ
để thanh toán khoản vay trả góp hàng tháng trong một khoảng thời gian vài năm thì ngân hàng có thể cho họ vay tiền. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ lấy của họ một mức lãi suất cao hơn so với mức lãi suất họ được hưởng trước đó khi họ là người gửi tiền: mức chênh lệch này là thu nhập của ngân hàng từ dịch vụ tài chính họ cung cấp. 


Vay mượn và đầu tư
 


Một quá trình tương tự như vậy cũng xảy ra khi các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn đầu tư cho các nhà máy, cửa hàng và trang thiết bị mới. Và cũng như các ngành khác trong một nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng giúp đảm bảo rằng lãi suất sẽ thấp hết mức có thể mà vẫn mang lại cho ngân hàng một mức thu nhập thỏa đáng để họ có thể hoạt động tốt và hiệu quả. Hơn nữa, do dự trữ tiền cho các khoản vay là có hạn nên những người đi vay – các cá nhân hoặc công ty – sẽ cạnh tranh với nhau để được ngân hàng chấp thuận. Sự cạnh tranh này sẽ giúp đảm bảo các khoản vay ngân hàng sẽ được phân bổ cho các khoản đầu tư có doanh thu tiềm năng cao nhất theo một phương thức hiệu quả hơn nhiều so với trường hợp chính phủ tự mình quyết định cho vay.
 


Các doanh nghiệp tìm cách vay các khoản đầu tư này để trang bị các cơ sở vật chất hoặc trang thiết bị mới để tăng sản lượng và doanh số. Các công ty trông đợi sẽ thu được lợi nhuận từ các khoản đầu tư mới này trong nhiều năm, vì vậy họ sẵn sàng trả tiền lãi cho nguồn quỹ mà họ sử dụng để mua các thiết bị đó và bắt đầu sản xuất ngay lập tức.
 


Tất nhiên nếu lãi suất họ phải trả cao hơn tỉ suất lợi nhuận họ có thể thu được thì doanh nghiệp sẽ không vay vốn nữa. Và thực tế, nếu một công ty không có những dự định đầu tư có lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay hiện tại thì họ sẽ tiết kiệm tiền còn hơn là cố gắng vay mượn thêm. Hoặc, một điều chắc chắn hơn là doanh nghiệp sẽ cố gắng chuyển các nguồn lực của mình sang một lĩnh vực kinh doanh khác có tỉ suất lợi nhuận dự tính cao hơn mức lãi suất tiền vay. Điều đó đơn giản chỉ là một cách lựa chọn khác, theo đó các nguồn lực đã được chuyển sang cho các công ty xác định được cách thức sử dụng nguồn lực có lợi nhất, và như chúng ta đã thấy ở trên, nó dựa vào việc cung cấp những sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu nhất, với giá cả bằng hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm tương tự đang được các công ty cạnh tranh chào bán. 
 


Ở đây, thương mại quốc tế cũng có vai trò quan trọng. Các quốc gia có thể trao đổi hàng hóa thì họ cũng có thể trao đổi các dịch vụ tài chính và các nguồn quỹ đầu tư. Đầu tư nước ngoài có thể làm tăng nguồn quỹ hoặc vốn cho các doanh nghiệp đang tìm kiếm nguồn vay vốn để đầu tư. Bằng cách cạnh tranh với các ngân hàng và các tổ chức tài chính trong nước, đầu tư nước ngoài cũng có thể góp phần đảm bảo mức lãi suất - chi phí sử dụng tiền - thấp hơn.
 


Đầu tư nước ngoài, nếu bị coi là quá mở rộng, có thể khiến người ta lo lắng rằng một phần của nền kinh tế không còn thuộc quyền kiểm soát của quốc gia nữa. Những mối lo này thường là không có cơ sở, phần lớn vì một nền kinh tế thị trường năng động sẽ đưa lại các cơ hội công bằng cho tất cả các khoản đầu tư và các hoat động kinh doanh quốc tế cũng như trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng giống như các loại hình đầu tư khác, là một lá phiếu tín nhiệm cho tăng trưởng kinh tế. Bằng cách đưa vào các nguồn quỹ mới, đầu tư nước ngoài luôn luôn cải thiện tính hiệu quả, bổ sung các chuyên gia quản lý và giúp cho mức lãi suất hạ thấp hơn.
 


Thị trường chứng khoán và đầu tư
 


Như chúng ta đã thấy trong ví dụ về Robert và Maria, các ngân hàng thành công kiếm tiền bằng cách hoạt động như là người trung gian giữa người để dành tiền và người đi vay, và đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế bằng cách đưa họ lại với nhau để các khoản tiết kiệm có thể được tái đầu tư.
 


Trong lĩnh vực tài chính của một nền kinh tế thị trường rộng lớn còn có các loại hình kinh doanh khác, thậm chí chuyên môn hóa hơn. Giả sử rằng sau một vài năm, Robert và Maria quyết định bắt đầu lập một doanh nghiệp nhỏ tận dụng kết hợp các kỹ năng và kinh nghiệm của họ về giáo dục và lập trình máy tính. Họ cùng nhau phát triển một loạt phần mềm máy tính về giáo dục cho các trường học, và họ cần tiền để bắt đầu một doanh nghiệp mới gọi là Công ty Phần mềm Giáo dục R&M. Họ có thể quay trở lại ngân hàng và cố gắng bảo lãnh khoản vay như họ đã làm khi mua ngôi nhà. Hoặc họ có thể bán các phần sở hữu, tức là các cổ phiếu công ty, trong doanh nghiệp tương lai của họ cho hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn người tin tưởng rằng Công ty Phần mềm R&M có khả năng sinh lợi. Các doanh nhân nhỏ như Robert và Maria, cũng như các tập đoàn lớn nhất thế giới, thường chào bán cổ phiếu như vậy thông qua các nhà môi giới chứng khoán, những người hoạt động kinh doanh chứng khoán trên khắp thế giới.
 


Những người mua cổ phiếu này sẵn sàng đầu tư một phần tiền của mình vào các doanh nghiệp này để nhận một phần lợi tức của doanh nghiệp trong tương lai. Những người này trở thành các chủ nhân thực sự hợp pháp của công ty và nhận được quyền bỏ phiếu cho mỗi cổ phần mà họ mua. Điều này khiến họ có tiếng nói về những việc công ty làm và quyết định ai sẽ là giám đốc và ban điều hành của công ty.
 


Họ cũng đồng thời chia sẻ rủi ro của công ty. Nếu Công ty Phần mềm Giáo dục R&M hoạt động kém hiệu quả hoặc thua lỗ thì các nhà đầu tư sẽ mất một phần hoặc toàn bộ tiền đầu tư. Tuy nhiên, nếu công ty thành công, chính các nhà đầu tư này sẽ có cơ hội nhận một khoản lợi nhuận từ khoản đầu tư của họ, hoặc họ chọn cách giữ cổ phần để có thu nhập dài hạn, hoặc họ bán cổ phần của mình với giá cao gấp nhiều lần so với giá trị ban đầu.
 


Chỉ cần các cổ đông hy vọng công ty hoạt động tốt, họ sẽ giữ các cổ phiếu đó để có một phần từ lợi nhuận dự tính của công ty, và thậm chí có thể mua thêm các cổ phần khác. Nhưng những cổ đông không hài lòng với triển vọng doanh thu và lợi nhuận của công ty sẽ bán các cổ phiếu họ có trên thị trường chứng khoán thông qua các công ty chuyên môn hóa trong việc tìm kiếm người mua và người bán cổ phiếu của tất cả các tập đoàn lớn trong nền kinh tế. Các công ty này được coi là các nhà môi giới chứng khoán, và nhóm các công ty này kết hợp cùng nhau sẽ tạo nên các thị trường chứng khoán rộng lớn tại các địa điểm trên khắp thế giới như New York, Tokyo và London. 
 


Giống như ngành ngân hàng, các thị trường chứng khoán này dần đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia và trong thương mại quốc tế. Họ giúp những cổ đông và những người khác thực hiện các quyết định đầu tư, đánh giá tính hiệu quả của các doanh nghiệp đang hoạt động và phân tích tình hình kinh doanh nói chung. Điều này được thực hiện thông qua giá cả của hàng ngàn cổ phiếu công ty đang được trao đổi hàng ngày trên các sàn giao dịch này, đang tăng lên hoặc giảm xuống tùy theo tình hình kinh doanh thay đổi không ngừng của các công ty tư nhân, các đối thủ cạnh tranh và toàn bộ nền kinh tế.
 


Quá trình đầu tư đưa lại cho những người tiết kiệm tiền và các nhà đầu tư sự tự do và cơ hội quyết định về những rủi ro và công việc kinh doanh mới. Họ sẽ tiếp tục thu lợi lớn nếu họ tiết kiệm và đầu tư khôn ngoan, nhưng họ cũng có thể mất rất nhiều nếu họ đầu tư không hợp lý. Đó là lý do vì sao hầu hết các nhà đầu tư đều không chọn cách đầu tư tất cả tiền của vào một dự án hay một công ty, thay vào đó họ vẫn giữ một phần tài sản của mình trong các công ty hoặc tài khoản rất an toàn, “đáng tin cậy và trung thực”. Chỉ những người chọn cách đặt một canh bạc lớn và đầu tư toàn bộ tài sản của họ vào một số ít công việc kinh doanh rủi ro cao có khả năng sẽ mất cả cơ nghiệp – hoặc ngược lại, sẽ được cả một cơ nghiệp từ thị trường tài chính.
 


Trong thế kỷ vừa qua người ta đã thực hiện một sự so sánh giữa các khoản đầu tư tư nhân với các khoản đầu tư của chính phủ vào việc phát triển các sản phẩm và công nghệ mới, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung. Mặc dù có nhiều thời kỳ thua lỗ nhưng những khoản đầu tư tư nhân rõ ràng đã có kết quả vượt trội. Vì sao? Một lần nữa nguyên nhân chính là bản chất của nền kinh tế thị trường: một quá trình phân tán trong đó nhiều người thực hiện các quyết định vay mượn và đầu tư phản ứng với các điều kiện kinh tế thay đổi chứ không phải là một nhóm nhỏ trong một chính phủ tập trung. Hơn nữa, các quyết định này là do các cá nhân thực hiện - những người mà tài sản của chính họ phải hứng chịu rủi ro chắc chắn sẽ là động lực mạnh mẽ khiến họ thực hiện các lựa chọn một cách cẩn thận và khôn ngoan.

(Theo maxreading)

  • Bài học từ khủng hoảng
  • Nền kinh tế thương hiệu
  • Tái cấu trúc nền kinh tế (phân II)
  • Tái cấu trúc nền kinh tế (phân 1)
  • Làm thế nào để giữ vững niềm tin trong cuộc khủng hoảng?
  • Kinh tế thị trường là gì? (6): Hệ thống các thị trường
  • Kinh tế thị trường là gì? (5): Người lao động trong nền kinh tế thị trường
  • Kinh tế thị trường là gì? (4): Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
  • Kinh tế thị trường là gì? (3): Người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường
  • Kinh tế thị trường là gì? (2): Kinh tế chỉ huy và kinh tế thị trường
  • Kinh tế thị trường là gì? (1)
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com