Hầu hết trong số khoảng 15 nghìn công ty quảng cáo của Mỹ trung thành với khái niệm xây dựng một nhãn hiệu nhờ quảng cáo.“Điều cơ bản mà tất cả chúng ta nhắm tới là tạo nên các nhãn hiệu hàng đầu” - CEO của công ty D’Arcy, Masius Benton & Bowles9 phát biểu“Cách tiến hành là chúng ta phải thấu hiểu tâm lý người tiêu dùng, việc này sẽ dẫn tới những kết quả công việc tốt hơn, sáng tạo hơn, mới hơn".
Xây dựng các nhãn hiệu hàng đầu nhờ các kết quả công việc tốt hơn, sáng tạo hơn, mới hơn? Chúng tôi không nghĩ thế. Hầu hết các nhà tiếp thị nhầm lẫn giữa xây dựng nhãn hiệu với duy trì nhãn hiệu. Mặc dù cần một ngân sách quảng cáo lớn để duy trì những nhãn hiệu thành công như McDonald’s và Coca‐Cola, nói chung quảng cáo sẽ không thể đưa một nhãn hiệu mới lên cao được.
Anita Roddick đã tạo dựng The Body Shop10 thành một nhãn hiệu lớn mà chẳng cần đến quảng cáo. Bà đi khắp thế giới trong một nỗ lực thu hút sự quảng bá thông qua việc đưa ra các ý kiến về môi trường. Nói theo nghĩa đen, chính dòng lũ các bài báo và các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh và truyền hình đã tạo nên nhãn hiệu The Body Shop. Starbucks cũng không đổ tiền vào quảng cáo. Trong mười năm đầu hoạt động, công ty đã chi gần 10 triệu đô la cho quảng cáo, đây là một con số quá nhỏ bé so với một nhãn hiệu đem lại doanh thu hàng năm 2,6 tỷ đô la.
Wal‐Mart đã trở thành nhà bán lẻ lớn nhất thế giới với doanh thu hàng năm hơn 200 tỷ đô la mà không cần nhiều quảng cáo. Một người anh em của Wal‐Mart, Sam’s Club, đã thu được 45 triệu đô la mỗi cửa hàng mà gần như không cần một chút quảng cáo nào. Miller Brewing lại chi đến 50 triệu đô la để tung ra nhãn hiệu Miller Regular (hay gọi tắt là Miller). Nhãn hiệu này chẳng hề được quảng bá chút nào, gần như không để lại ấn tượng gì trong đầu những người uống bia và chỉ đem lại một khoản doanh thu ít ỏi là 50 triệu đô la.
Quảng cáo có tính sáng tạo tốt có thể xây dựng loại bia Miller Regular thành một nhãn hiệu hàng đầu được không? Chúng tôi cho là không. Không có tiềm năng quảng bá nào cho một loại bia bình thường có một nhãn hiệu mở rộng như Miller. Trước đây một ngân sách quảng cáo dồi dào có thể là yếu tố cốt lõi trong quá trình xây dựng nhãn hiệu. Nhưng cái đã đúng trong quá khứ không hẳn đã đúng vào thời nay. Chúng ta đang sống trong một xã hội thông tin, nơi mỗi ngày mỗi người chúng ta có thể nhận được đến hàng trăm thông điệp quảng cáo Ngày nay nhãn hiệu sinh ra, chứ không được tạo ra. Một nhãn hiệu mới phải có khả năng thu hút sự quảng bá thiện chí trên báo chí, nếu không nó sẽ không có cơ may trụ lại trên thị trường. Làm thế nào để quảng bá nhãn hiệu? Cách tốt nhất để được quảng bá là trở thành người đi tiên phong. Nói cách khác, là trở thành nhãn hiệu đầu tiên trong một dòng sản phẩm mới.
Ví dụ như:
- Band‐Aid là loại băng dính y tế đầu tiên
- Charles Schwab là hãng môi giới chứng khoán giảm giá đầu tiên
- CNN, mạng lưới tin truyền hình cáp đầu tiên
- Compaq, chiếc máy tính cá nhân xách tay đầu tiên
- Domino’s, chuỗi cửa hàng pizza giao tận nhà đầu tiên
- ESPN, mạng lưới truyền hình cáp thể thao đầu tiên
- Gore‐Tex, vải không thấm nước thoáng khí đầu tiên
- Heineken, loại bia nhập khẩu đầu tiên
- Hertz, công ty cho thuê ô tô đầu tiên
- Intel, mạch vi xử lý đầu tiên
- Jell‐O, món tráng miệng dạng thạch (gelatin) đầu tiên
- Kentucky Fried Chicken, chuỗi cửa hàng bán đồ ăn nhanh làm từ thịt gà đầu tiên
- National Enquirer, bản tin đầu tiên về mua sắm ở siêu thị (supermarket tabloid)
- Playboy, tạp chí đầu tiên dành riêng cho đàn ông
- Q‐Tips, gạc bông thấm đầu tiên
- Reynolds Wrap, nhôm tấm, nhôm lá đầu tiên
- Rollerblade, giày trượt đầu tiên
- Samuel Adam, bia sản xuất theo từng đợt nhỏ đầu tiên
- Saran Wrap là loại giấy bóng đóng gói thực phẩm đầu tiên
- Sun Microsystems là trạm làm việc Unix (Unix workstation) đầu tiên
- Time là tuần báo tin tức đầu tiên
- Xerox là loại máy photocopy trên giấy trơn đầu tiên
Tất cả các nhãn hiệu trên (và còn rất nhiều nữa) đều là nhãn hiệu đầu tiên cho một dòng sản phẩm nào đó, và trong quá trình được xây dựng, chúng đã có được sự quảng bá rất rộng rãi. Giữa nhãn hiệu và sự quảng bá có mối quan hệ mật thiết. Các phương tiện truyền thông đại chúng (TV, radio, báo chí, Internet) muốn đưa tin về những gì mới mẻ, sốt dẻo, nóng hổi, lần đầu xuất hiện, chứ không phải những gì tốt đẹp.
Khi một nhãn hiệu có khả năng tạo nên tin tức, nhãn hiệu đó có cơ may thu hút sự quảng bá. Và cách tốt nhất tạo ra tin tức là công bố một dòng sản phẩm (category) mới, chứ không phải một sản phẩm mới (product). Những gì người ta nói về nhãn hiệu của anh thường có sức nặng hơn những gì chính anh nói về bản thân mình. Đó là lý do tại sao quảng bá (publicity) nói chung mạnh hơn và hiệu quả hơn quảng cáo (advertising). Và đó là lý do tại sao suốt hai thập kỷ qua, quan hệ công chúng (public relations ‐ PR) là lực lượng mạnh mẽ nhất, lấn át hẳn quảng cáo trong việc xây dựng nhãn hiệu. Tuy nhiên, từ bao năm nay quan hệ công chúng đã bị coi là thứ yếu so với quảng cáo. Những người phụ trách quan hệ công chúng thậm chí đã từng đánh giá sự thành công của họ theo thước đo quảng cáo. Những tin bài quảng bá được quy đổi sang chi phí quảng cáo tương đương. Thậm chí còn tệ hơn nữa, những chiến lược marketing thường được hình thành trước tiên theo các khẩu hiệu (slogan) của quảng cáo. Sau đó người chuyên trách quan hệ công chúng được yêu cầu phải tăng cường quảng cáo bằng cách xây dựng các chương trình quan hệ công chúng để truyền bá các khẩu hiệu đó.
Không còn như vậy nữa. Ngày nay các nhãn hiệu được xây dựng nên nhờ sự quảng bá và được duy trì nhờ quảng cáo. Chiếc xe giờ đây lại chạy trước con ngựa. Vậy tại sao uy lực của quan hệ công chúng không tạo nên tin tức để truyền bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng? Tại sao các bộ phận chuyên trách quan hệ công chúng của phần lớn các công ty vẫn còn bấu víu và bị phụ thuộc các bộ phận quảng cáo? Tại sao chín trong số mười công ty quan hệ công chúng hàng đầu vẫn còn thuộc các tập đoàn quảng cáo chứ không phải ngược lại? Tại sao giới truyền thông lại bỏ qua câu chuyện lớn nhất trong marketing như thế? Đó là hiện tượng cỏ dại. Chẳng ai chú ý đến việc cỏ mọc hay quan tâm đến một xu thế có chiều hướng phát triển chậm như thế. Thử xét trường hợp máy fax. Hơn 20 năm qua, máy fax đã trở thành một phần thiết yếu trong truyền thông liên lạc của mọi công ty. Năm nay người Mỹ sẽ gửi 65 tỷ trang fax, tính ra hơn 230 trang trên mỗi đầu người. Và 50% các cú điện thoại quốc tế hiện nay là các cú liên lạc tín hiệu fax. Vậy mà chúng ta không thể nhớ nổi có bài viết nào trong các ấn phẩm chính về quản lý nói về điều đó khi máy fax bắt đầu xuất hiện.
Nó xuất hiện quá từ từ. Trái lại, với Internet thì khác. Internet bắt đầu xuất hiện nhanh đến nỗi nó đã tạo ra một cơn lốc quảng bá cũng như sự sụp đổ nhanh chóng của các cổ phiếu Internet trong quá khứ. Những người làm quảng cáo đặc biệt có xu hướng coi thường quan hệ công chúng. Một nhà quản trị quảng cáo rất nổi tiếng gần đây đã nói rằng: “Nếu quảng cáo đã quá tốt thì chẳng cần quan hệ công chúng”.
Nhưng cái có hiệu quả trong xây dựng nhãn hiệu ngày nay chính là quảng bá chứ không phải quảng cáo. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực kỹ thuật cao (high‐tech). Tất cả các đại gia marketing toàn cầu như Microsoft, Intel, Dell, Compaq, Gateway, Oracle, Cisco, SAP, và Sun Microsystems đều đã sinh ra từ các trang báo của các tạp chí The Wall Street Journal, Business Week, Forbes, và Fortune. Dưới hình thức quảng bá chứ không phải quảng cáo. Cách đây nhiều năm chúng tôi đã làm việc với công ty Lotus Development Corp. về chiến lược xây dựng nhãn hiệu cho sản phẩm Lotus Notes.
Cốt lõi của chiến lược này là thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm Notes như “sản phẩm phần mềm nhóm thành công đầu tiên”. Tất nhiên, phải nhấn mạnh cụm từ “phần mềm nhóm” (groupware)11. Ý tưởng này được các cơ quan truyền thông đại chúng chộp lấy, và họ đăng hết bài này đến bài khác về khái niệm phần mềm nhóm mới mẻ này. Thế mà bộ phận quảng cáo của Lotus đã lờ đi ý tưởng về phần mềm nhóm để theo đuổi món quảng cáo nhảm nhí. Chẳng thành vấn đề, bởi vì rút cục quan hệ công chúng quan trọng hơn quảng cáo. Kết quả của chương trình quảng bá đó là Notes thành công vang dội và cuối cùng IBM đã mua Lotus Development Corp. với một cái giá không ngờ là 3,5 tỷ đô la. Hầu hết các công ty khi phát triển các chiến lược xây dựng nhãn hiệu của họ đã xem quảng cáo như công cụ thông tin chủ yếu. Họ đã lầm. Chiến lược phải được phát triển trước tiên từ quan điểm về quảng bá.
Tommy Nguyễn- trích "22 quy luật vàng trong xây dựng nhãn hiệu" /NXB Tri Thức.
Khi những sản phẩm Coca-Cola in tên tràn ngập mạng xã hội và phong trào chụp ảnh khoe tên không ngừng lan tỏa, chiến dịch “Share a Coke” của Coca-Cola đã trở thành chủ đề được bàn luận nhiều nhất trong giới làm kinh doanh và tiếp thị.
Cuộc chiến giữa các đại gia đã, đang có mặt trên thị trường mì ăn liền VN châm ngòi cho một sự chạy đua hướng đến các sản phẩm mới. Với sự đa dạng của thị trường mì ăn liền, chủ yếu tập trung vào các sản phẩm gốc mì hiện nay, trong tương lai, liệu các đại gia có chuyển tâm điểm tới cuộc chiến mới là mì gốc gạo ?
Nhu cầu về nhân sự cao cấp, lao động cấp quản lý không hề suy giảm cho dù kinh tế khó khăn, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đình trệ và thị trường lao động trầm lắng.
Ý định kinh doanh cà phê sạch đã được Lê Minh Cường, Giám đốc Công ty TNHH Cà phê Lê Phan ấp ủ từ những ngày còn làm đại lý cung cấp cà phê cho các quán tại TP.HCM.
Việt Nam có nhiều doanh nhân đã từng thành công vang dội với mì ăn liền ở Đông Âu như Nguyễn Đăng Quang, Phạm Nhật Vượng hay Đặng Khắc Vỹ. Tuy nhiên, chỉ có các ông chủ của Masan Group (Nguyễn Đăng Quang, Hồ Hùng Anh) là tiếp tục đầu tư mạnh cho lĩnh vực đầy hấp dẫn này ở quê nhà.
Tình huống thực tế là thế này: Khi quyết định mua một món hàng gì đó khá tiền (ti-vi, xe máy, dàn âm thanh...) chúng ta sẽ làm gì đầu tiên? Tôi đã để ý và nhận thấy không dưới 70%, trong đó có cả tôi, chắc chắn không phải cứ thế là sầm sầm vào siêu thị hay cửa hàng chuyên dụng (showroom) thanh toán và lôi hàng về.
Ông Roopam Garg – Giám đốc điều hành Tập đoàn Publicis Group Media Việt Nam bày tỏ một số quan điểm về sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các công ty truyền thông và khách hàng.
Quy mô của doanh nghiệp có phải là một vấn đề? Nếu bạn là một chủ doanh nghiệp nhỏ, bạn có thể tự đặt ra câu hỏi này bất cứ khi nào bạn bỏ lỡ một đơn đặt hàng chỉ bởi vì doanh nghiệp của bạn bị một khách hàng lớn coi là quá nhỏ.
Các doanh nghiệp trong nước cần áp dụng công nghệ thông tin để nâng cao khả năng quản lý chuỗi cung ứng, từ đó tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh.
Việc cho không một sản phẩm luôn là một khái niệm tiếp thị tuyệt vời. Ngay cả một người tiêu dùng không sành sỏi cũng có thể nhận thấy lợi ích của việc dùng sản phẩm miễn phí.
Hasbro, một hãng trò chơi trực tuyến hàng đầu của Mỹ, đã tiến hành cuộc thử nghiệm bằng trò chơi trực tuyến có tên Trivial Pursuit để xem giữa phái mạnh và phái đẹp, ai là người thông minh hơn. Dự kiến, cuộc thử nghiệm sẽ kết thúc vào cuối năm nay.
Việc có được dịch vụ khách hàng tuyệt vời quả là khó, còn theo lý giải của Michel Bergdahl thì bạn lại bị bó buộc để rồi va vào vô số những vật cản làm cho ngã trên con đường đó. Có rất nhiều cách để đánh mất các khách hàng đang có của bạn nếu bạn không cẩn trọng trong các thỏa thuận của mình hàng ngày.
Khi những sản phẩm Coca-Cola in tên tràn ngập mạng xã hội và phong trào chụp ảnh khoe tên không ngừng lan tỏa, chiến dịch “Share a Coke” của Coca-Cola đã trở thành chủ đề được bàn luận nhiều nhất trong giới làm kinh doanh và tiếp thị.
Sau 97 năm nằm dưới sự sở hữu của gia đình sáng lập, công ty truyền thông Forbes Media cách đây ít hôm tuyên bố đã bán cổ phần đa số cho một nhóm nhà đầu tư quốc tế có trụ sở ở Hồng Kông.
Dường như thời kỳ 'nổi như cồn' và 'nổ như pháo' của anh em Bầu Thụy - Bầu Thủy được mọi người biết đến cả danh tiếng và tai tiếng đã qua. Hai doanh nhân trẻ tuổi đang ẩn sâu và kín tiếng hơn.
Ai cũng được cho cơ hội để có thể trở nên giàu có như nhau. Vấn đề duy nhất ở đây là, suy nghĩ, quan niệm về tiền bạc của mỗi người khác nhau, từ đó dẫn đến kết quả khác nhau cho mỗi người.
Việc nhiều tập đoàn vung tiền "khủng" để rước các Giám đốc điều hành (CEO) thuộc hạng "siêu sao" về làm việc có thể là quyết định sai lầm nghiêm trọng dẫn đến sụt giảm hiệu suất kinh doanh của chính họ.