Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Văn hóa kinh doanh: 21. Các lý thuyết mới về văn hóa - Phần 1

Các lý thuyết mới về văn hóa

Giải thích các quy tắc xã hội, các ý tưởng, cái tưởng tượng... từ lý thuyết tiến hóa, đó là mục tiêu của các mô hình Darwin mới về văn hóa. Một số lý thuyết ấy đem lại một tính độc lập cho văn hóa đối với những bó buộc của tự nhiên.

Đạo đức, quyền lực, tình yêu, tôn giáo, những liên hệ xã hội hoặc cả văn hóa nữa, liệu chúng ta có thể được giải thích bằng sự tiến hóa kiểu Darwin, nghĩa là nhắc lại sự chọn lựa tự nhiên và các cơ chế di truyền, không? Đối với câu hỏi tế nhị và nhạy cảm ấy, nhân học và xã hội học ở thế kỷ XX rất thường hay trả lời theo lối tiêu cực. Từ đầu thế kỷ, các khoa học xã hội thật ra đã phát triển chung quanh ý tưởng cho rằng cái riêng của con người là ở chỗ tự giải thoát phần lớn khỏi những bó buộc tự nhiên để đi vào thế giới của văn hóa: nhờ ở ngôn ngữ, kỹ thuật, trí tuệ, tính phức hợp về tổ chức xã hội, hay cả ở sự cấm đoán loạn luân. Một đường ranh giới như vậy là đã được ngầm vạch ra giữa các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; một bên là tự nhiên, trong đó các quy luật sinh học chi phối; bên khác, văn hóa và các xã hội người bị điều khiển bởi những động thái độc lập.

Từ những năm 70, các lý thuyết Darwin mới về văn hóa đã tìm cách bác bỏ sự chia cắt ấy. Chúng đề xướng áp dụng những lô gích của tiến hóa vào những hiện tượng xã hội và văn hóa. Những ý định này đã gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi. Các tác giả của chúng thường bị lên án mắc phải “chủ nghĩa quy vào sinh học” (réductionnisme biologique) và phủ nhận mọi sự độc lập đối với văn hóa người. Cuộc tranh luận ngày càng triệt để giữa những người chủ trương “tất cả đều là sinh học” và “tất cả đều là văn hóa” làm cho người ta hiểu rõ hơn những lập trường hiện có. Các lý thuyết Darwin mới khá thường khi được mô tả như những biến thể của một khối học thuyết thuần nhất, chủ yếu tập trung vào ý tưởng quyết định luận di truyền. Thế nhưng, đằng sau việc quy chiếu chung vào những lý giải đương thời của Darwin, những mô hình giải thích ấy vẽ nên một tập hợp khá rộng, trong đó người ta thấy, bên cạnh những luận điểm theo thuyết quy vào sinh học và hoàn toàn đối lập với chúng, là những lý thuyết quay chung quanh ý tưởng về một sự độc lập hoàn toàn của văn hóa con người đối với gien. Trong tập hợp ấy, có thể rút ra ít nhất bốn mô hình tiêu biểu lớn:

1) sinh học xã hội về con người stricto sensu;

2) lý thuyết về các “men” (xem sự giải thích dưới đây - N.D) do Richard Dawkins xây dựng;

3) các lý thuyết về sự cùng tiến hóa gien / văn hóa;

4) và cuối cùng, các lý thuyết nhân học lấy cảm hứng từ các khoa học nhận thức.

Sinh học xã hội về con người

Sinh học xã hội (sociobiologie) về con người xuất hiện trong cảnh tượng trí tuệ phương Tây giữa những năm 70, dưới sự thúc đẩy chủ yếu của nhà côn trùng học Edward O. Wilson. Lý thuyết đó được xây dựng như sự kéo dài của sinh học xã hội động vật (sociobiologie animale). Nó là sự mở rộng từ chủ nghĩa Darwin ra sự giải thích những ứng xử xã hội, như sự vị tha thường thấy trong thế giới sinh vật, có thể quan sát trong thế giới sinh vật.

Sự tận tụy đối với kẻ khác, như sự tận tụy của những con ong không sinh đẻ hiến toàn bộ năng lượng của mình cho việc tái sinh và bảo vệ con ong chúa, vẫn là một bí ẩn từ thời Darwin: giải thích như thế nào về những ứng xử rõ ràng là bất lợi đối với những cá thể lẽ ra có thể được giữ lại bởi sự chọn lọc tự nhiên? Đầu những năm 60, nhà di truyền học William Hamilton đưa ra giải pháp cho bí ẩn ấy qua lý thuyết “chọn lọc họ hàng” (kin selection). Nói một cách đơn giản, lý thuyết này cho rằng một ứng xử vị tha đối với một thành viên họ hàng (chẳng hạn, đối với những con kiến thợ, sự chăm sóc những ấu trùng do kiến chúa đẻ ra), trong một số trường hợp, có thể là một ứng xử thích nghi: khi chăm sóc những con chị em nhỏ của nó - có chung với nhau đến ba phần tư di sản di truyền-, con kiến không đẻ bảo đảm sự lan truyền một phần quan trọng những gien của nó, trong khi vẫn trực tiếp sinh đẻ theo con đường hữu tính.

Trong cuốn Sociology (1975), E.O. Wilson đã tập hợp và tổng hợp cả một loạt công trình “nghiên cứu những cơ sở sinh học của ứng xử xã hội ở động vật cũng như ở con người” (1). Dù nói tới việc săn mồi tập thể ở sư tử hay chó sói, những liên hệ tôn ti trật tự ở gà mái, những ứng xử họ hàng và tính dục ở các loài chim và động vật có vú, E.O. Wilson cố chứng minh rằng những hành vi xã hội có thể được giải thích theo lối thích nghi. Chẳng hạn, việc các con cái bỏ công chăm sóc con của chúng nhiều hơn các con đực ở phần lớn các loài động vật chính là do việc đẻ ra một quả trứng cần tới sự đầu tư sinh học lớn hơn việc sản sinh ra một tinh trùng. Những ứng xử đực và cái ở động vật có lẽ là hai chiến lược thích nghi khác nhau, nhưng đều có hiệu quả như nhau: chiến lược của con đực là dành tất cả những nỗ lực của mình nhằm nhân lên những tế bào tính dục và làm chúng lan rộng ra đến mức có thể, bằng cách chi phí một lượng năng lượng tối thiểu cho sự phát triển của con cháu chúng thoát thai từ các tế bào ấy; còn chiến lược của các con cái là sản sinh ra ít tế bào tính dục nhưng đem lại mức tối đa cho những cơ may phát triển và sống sót của mỗi tế bào đó, nhất là không tiếc sức chăm sóc sự lớn lên của chúng. Trong chương cuối của cuốn sách gây tranh luận ấy, E.O. Wilson muốn chuyển lô gích của Darwin vào cả một lớp hiện tượng của con người: hôn nhân, đạo đức, tôn giáo, nghi thức, đổi chác, phân công lao động đàn ông / đàn bà. Vì thế, trong mắt ông, các chuẩn mực xã hội (các quy tắc đạo đức, việc tránh loạn luân, hôn nhân và thân tộc) là biểu hiện những thiên hướng sinh học ăn sâu vào các gien con người. Các thiên hướng di truyền ấy, mà trung tâm của chúng chủ yếu nằm ở hệ rìa của não, có lẽ đã được chọn lựa ở tổ tiên thuộc thế pleistocene của chúng ta (2), do những ưu thế chúng mang lại. Những sự phê phán đối với sinh học xã hội về con người không chỉ đến từ các nhà khoa học hay trí thức đối nghịch với những luận điểm động vật học của E.O. Wilson. Từ đầu những năm 70, một số nhà tập tính học theo phái Darwin mới không muốn mở

rộng những kết luận của họ ra con người. Tuy vậy, một bộ phận trong số đó vẫn tin chắc rằng chủ nghĩa Darwin còn có giá trị để giải thích những hiện tượng xã hội và văn hóa con người, nhưng dưới một hình thức ngược hẳn lại với thuyết quyết định sinh học do sinh học xã hội về con người đề xướng. Với việc lấy lại và cập nhật hóa một ý tưởng khá cũ, được các nhà tâm lý học như Donald T. Campbell hay vài nhà di truyền học như Luca Cavalli-Sforza ủng hộ cũng vào thời đó, các nhà nghiên cứu này đã chủ trương luận điểm cho rằng nguyên lý chọn lọc hay tiến hóa vẫn còn hoàn toàn thích hợp với việc giải thích những hiện tượng của con người, nhưng chỉ dùng nó như một sơ đồ trừu tượng cho phép hình thức hóa động thái văn hóa bằng loại suy.

Các “men” chống lại các “gien”

Nổi tiếng nhất trong các cấu trúc lý thuyết ấy chắc chắn là lý thuyết về các “men” do nhà tập tính học Anh R. Dawkins đề xướng vào những năm 70 và ngày nay được lấy lại, nhất là bởi nhà triết học Mỹ D.C. Denneth. Trong cuốn sách được coi như một cột mốc, Gien vị kỷ, Dawkins (3) nhấn mạnh rằng ý tưởng cách mạng của chủ nghĩa Darwin là ở chỗ coi sự tiến hóa như một quá trình đi xuống có thay đổi, hay có thể nói, việc sao chép có những đột biến (4). Nhà tập tính học Anh nói rõ rằng các gien là những đơn vị sống lâu dài có khả năng tạo ra những sự sao chép trung thành với chính bản thân chúng, hoặc do sự tái sinh sản, hữu tính hay không, những cơ thể mang theo chúng, hoặc bằng những cách khác, đặc biệt là những ứng xử xã hội do chúng đẻ ra trong những cơ thể ấy. Những cơ thể sinh học, vì thế, chỉ là những cái máy được các gien sử dụng để chúng tự tái sinh sản. Nhưng, giống như trong mọi quá trình sao chép, những bản sao ấy có những sai lầm: đó là những đột biến tạo ra những gien mới. Một số gien mới ấy có thể sản sinh ra nhiều bản sao hơn những gien khác. Lúc đó, chúng trở thành những gien chiếm ưu thế về mặt thống kê trong quần thể gien mà chúng phải cạnh tranh. Đôi khi chúng bị thất bại về sự sao chép và biến mất.

Theo R. Dawkins, các gien chỉ là một ví dụ trong nhiều ví dụ sao chép khác. Cơ chế tiến hóa, như đã được mô hình hóa trong chủ nghĩa Darwin, vượt ra ngoài giới hạn những hiện tượng sinh học, nó cũng chỉ huy cả động thái văn hóa. Văn hóa của mỗi nhóm người có thể được mô tả, theo R. Dawkins, như một tập hợp những đơn vị mà ông muốn gọi là các “men” (menes) - có thể nói là chúng tạo thành những ý tưởng cơ bản của một nền văn hóa. Một men - có lẽ Thượng đế muốn thế - là một thực đơn, một ca khúc, một ý kiến bài ngoại, một adagio của Mozart, một định lý toán học... Các men được truyền từ bộ não này đến bộ não khác bằng cách tự sao chép, giống hệt như các gien trong tiến trình tái sinh sản. ở đây, sự sao chép chủ yếu được thực hiện bằng cách bắt chước kẻ khác, theo nghĩa rộng. Những gien văn hóa tốt như vậy cư trú trong các quần thể người. Do đó, các men truyền từ bộ não này sang bộ não khác giống như những vi khuẩn trong một quá trình dịch tễ. Nhưng giống như đối với các gien cũng truyền đi bằng cách sao chép, đôi khi cũng có những cái hỏng trong quá trình sao chép. Và sự sao chép bị thay đổi ấy kết thúc bằng việc sản xuất ra một bản sao đột biến: một tu sĩ thời trung đại quên mất hay thay đổi một câu trong khi chép lại một cuốn sách cổ; một chính phủ cho bỏ phiếu về một sự sửa đổi trong một đạo luật; một người thay đổi một chữ trong điệp khúc một bài hát; hoặc nữa, một kẻ nào đó thực hiện một cải tiến kỹ thuật trong động cơ ôtô hay thay đổi cách cắt một bộ áo quần. Thường thì các men đột biến không tự chúng đi tới chỗ sản sinh ra các bản sao: nói cách khác, không ai bắt chước chúng cả. Nhưng trong một số trường hợp, khi nhảy từ bộ não này sang bộ não khác, chúng lan ra cả quần thể, đôi khi theo lối thoáng qua - như các mốt thời thượng -, còn những lần khác thì lại theo lối vững bền - như “men Thượng đế” chẳng hạn. Theo nghĩa đó, các men cũng như các gien là đối tượng của một quá trình chọn lọc. Các men có thể thay đổi cơ may lan truyền của chúng bằng cách liên kết với nhau, tạo thành những phức hợp tích hợp có thể sao chép lẫn nhau có hiệu quả hơn là chúng ở cách xa nhau. Chẳng hạn, ý tưởng về ngọn lửa địa ngục và về Thượng đế, một khi chúng liên kết nhau, thì chúng càng củng cố lẫn nhau một cách mạnh mẽ hơn và làm tăng thêm những khả năng thích ứng với quần thể, giống hệt như các gien chỉ huy một sự gắn kết mật thiết của răng, hàm, dạ dày, ruột và các giác quan.

Trong lý thuyết về các men, văn hóa người hiện ra như một trung tâm tiến hóa độc lập, tách khỏi sự tiến hóa sinh học và nhanh hơn nhiều. Những kẻ sao chép văn hóa, chẳng hạn như ý tưởng độc thân, cũng đối lập với các gien. Theo nghĩa đó, lý thuyết do R. Dawkins đề xướng đối lập với mọi hình thức của thuyết quyết định sinh học hay của thuyết quy vào sinh học trong sự giải thích những hiện tượng văn hóa.

( Sưu tầm trên internet )

Bài thuộc chuyên đề: Văn hóa kinh doanh - Văn hóa doanh nghiệp

  • Miễn dịch cho các tổ chức (Phần I)
  • Miễn dịch cho các tổ chức: (Phần II)
  • Chia sẻ kinh nghiệm trong giai đoạn mới
  • Ứng xử với những nền văn hóa khác nhau
  • Home Depot - Một kế hoạch thay đổi văn hóa công ty
  • Văn hóa kinh doanh: 22. Các lý thuyết mới về văn hóa - Phần 2
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com