Chỉ với một phi vụ đầu cơ, John Paulson đã lập kỷ lục về thu nhập, kiếm được 3,7 tỷ USD trong năm 2007. Như vậy, từ một người gần như vô danh, ông bỗng trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời đêm của thế giới đầu cơ.
Nước lặng là nước sâu
Trước khi có được phi vụ đầu cơ để đời của mình, John Paulson cũng đã hành nghề đầu cơ được hơn chục năm. Sinh năm 1956 tại New York, Paulson theo học tại Trường Đại học Tổng hợp New York và sau đó tốt nghiệp Trường Đại học Haward. Những kiến thức lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn cần có để sau này tự khẳng định mình trong thế giới đầu cơ được Paulson tích lũy ở trường học và qua quá trình giúp việc cho những nhân vật gội cạo của thế giới tài chính như Leon Levy trong công ty Odyssey Partners, cho ngân hàng Bear Stearns và tập đoàn đầu tư tài chính Gruss Partners.
Giống như rất nhiều cư dân của thế giới đầu cơ khi khởi nghiệp, Paulson nhanh chóng nhận ra rằng, nếu chỉ làm công ăn lương thôi hoặc nếu chỉ trông cậy vào khoản tiền thưởng hay hoa hồng sau mỗi phi vụ kinh doanh thành công thì không thể nhanh chóng trở nên giàu có. Muốn kiếm tiền nhanh thì phải có gan liều và chấp nhận rủi ro. Trong quan niệm của Paulson, khái niệm “đầu tư“ chỉ là mỹ từ đánh lừa nhận thức bởi thực chất của đầu tư là đầu cơ, là bỏ tiền ra nhằm vào cái gì đó hiện chưa chắc có thành hiện thực trong tương lai hay không. Bài học đó Paulson học được khi còn đang làm thuê cho ngân hàng Bear Stearns và gặp nhà đầu tư tài chính Marty Gruss, chủ tập đoàn Gruss Partners. Paulson chuyển sang làm việc cho Gruss để rồi năm 1994 thành lập công ty đầu tư riêng với tên gọi Paulson & Co, với vài nhân viên và 2 triệu USD huy động được. Paulson gõ cửa bước vào thế giới đầu cơ năm đó và có thể nói Marty Gruss là người đã quyến rũ Paulson đến với thế giới đầu cơ.
Paulson cũng học được luôn từ Marty Gruss triết lý đầu cơ: “Hãy để ý đến xu thế giảm, còn xu thế tăng thì tự nó sẽ đến". Có nghĩa là: Hãy đi tìm, hãy phát hiện và thậm chí hãy gây dựng xu thế giảm giá trên thị trường, còn tăng trở lại chỉ là vấn đề thời gian. Vì sử dụng tiền của kẻ khác nên Paulson ở thời kỳ đầu không dám mạo hiểm, không đầu cơ vào bất cứ cái gì liên quan đến bất động sản mà thuần túy chỉ đầu cơ vào thành công hay thất bại của các vụ hợp nhất công ty. Đầu cơ như vậy gặp ít rủi ro, không phải chờ đợi lâu mới có được kết quả. Công ty của Paulson cứ tà tà như thế và trong vòng gần 10 năm biến Paulson thành triệu phú. Nước lặng là nước sâu, đứng trong bóng tối quan sát sự việc xảy ra ở khu sáng, low profile – hight profit là những phương châm chi phối toàn bộ công chuyện kinh doanh của Paulson. Paulson luôn ý thức được mình là ai và muốn gì. Cũng vì thế mà Paulson như thể chìm nghỉm trong thế giới đầu cơ. Cho tới năm 2005.
Trường kỳ mai phục
Sau 11 năm khám phá thế giới đầu cơ từ bên trong và khi vững vàng về tài chính rồi, Paulson mới mon men đầu cơ mạo hiểm hơn. Giữa năm 2005, Paulson cho rằng kinh tế Mỹ tăng trưởng không năng động và bền vững như thiên hạ tưởng và vì thế tập trung đầu cơ vào sự giảm giá của cổ phần các doanh nghiệp. Nhưng tỷ giá chứng khoán ở Mỹ vẫn cứ tiếp tục tăng cho tới cuối năm 2005. Paulson bị mất rất nhiều tiền, nhưng đổi lại được bài học kinh nghiệm quý giá là không thể tin cậy được vào thông tin của kẻ khác, vào đánh giá, nhận định và dự báo của kẻ bên ngoài cũng như lại phải trở lại với bài học sơ đẳng nhất trong nghiệp vụ đầu cơ là “điều chắc chắn nhất là chẳng có gì chắc chắn cả“, “quy luật quan trọng nhất là chẳng có quy luật nào cả“ và “nguyên tắc tối thượng là cái gì cũng có thể xảy ra“
Paulson lập ra bộ máy nghiên cứu phân tích riêng. Paulson yêu cầu cộng sự trả lời câu hỏi: “có thể đầu cơ vào đâu?“. Và Paulson mai phục từ giữa năm 2005.
Chiến lược đầu cơ của Paulson rất phức tạp về kỹ thuật, nhưng lại rất đơn giản về ý tưởng. Paulson cho rằng diễn biến trên thị trường bất động sản ở Mỹ rất không bình thường và sự gia tăng trên thị trường này không thể cứ kéo dài được mãi. Các ngân hàng thương mại cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi để khách hàng mua hoặc xây nhà, bảo lãnh bằng chính bất động sản đó. Paulson nhận thấy ở đấy chính là rủi ro không trả lại được tín dụng hay nói đúng hơn là cấp phát tín dụng không được bảo lãnh tốt. Một khi giá bất động sản sa sút thì sẽ tạo phản ứng dây chuyền khiến rất nhiều ngân hàng liên quan bị ảnh hưởng. Các ngân hàng đầu tư mua lại những chứng chỉ cho vay tín dụng không được bảo lãnh chắc chắn nói trên, gộp chúng lại thành những loại chứng khoán khác nhau và kinh doanh chúng như những hàng hóa bình thường khác trên thị trường chứng khoán. Chúng được gọi chung dưới cái tên “Collateralized Debt Obligations – CDO“. Những ai mua CDO thường phải sử dụng cái gọi là Credit Default Swaps (CDS) giống như một hình thức bảo hiểm cho trường hợp không thể thanh toán được CDO. CDS nhờ thế chiếm vị trí then chốt trong chiến lược đầu cơ của Paulson. Khi mọi chuyện xuôn sẻ thì giá của CDS rất rẻ, nhưng khi rủi ro không thanh toán được tín dụng tăng thì giá của CDS rất đắt. Paulson mua những CDS ấy với giá rẻ và chờ chúng tăng giá vì tin rằng sớm muộn thì thị trường bất động sản ở Mỹ cũng sẽ sụp đổ.
Trong lúc mọi người dồn của nhằm vào tăng giá bất động sản thì Paulson lại đầu cơ ngược lại. Chừng nào giá bất động sản còn tăng thì chừng đó Paulson còn thua lỗ. Nhưng Paulson vẫn kiên trì mai phục. Từng loại chứng khoán và tín dụng được mổ xẻ và phân tích, theo dõi và dự báo kỹ càng. Kết luận của Paulson là rủi ro không thanh toán được tín dụng lớn hơn và thực tế hơn nhiều so với những đánh giá và dự báo của các hãng đánh giá và dự báo lừng danh nhất. Paulson coi đó là “cơ hội mà tôi đã chờ đợi cả cuộc đời”.
Tín hiệu báo động đầu tiên xuất hiện vào tháng 1/2006. Ngân hàng Ameriquest phải trả cho 49 bang ở Mỹ 325 triệu USD để tránh bị lôi ra tòa về tội gian dối trong cấp phát tín dụng. Paulson coi đó là sự khẳng định dự báo của mình. Với tất cả tài sản có được và số 150 triệu USD vốn huy động được thêm từ các nhà đầu tư, Paulson lập Paulson Credit Opportunities Fund để đầu cơ vào sự sụp đổ của thị trường bất động sản ở Mỹ. Cho tới giữa tháng 6/2006, Paulson vẫn còn bị mất tiền. Nhưng những gì xảy ra sau đó thì đúng hệt như suy tính của Paulson. Bear Stearns sụp đổ. Khủng hoảng tài chính bung ra và Paulson thu về 3,7 tỷ USD trong năm 2007, vượt xa kỷ lục do George Soros lập với 2,9 tỷ USD thu nhập trong năm hay James Simons trước đó với 2,8 tỷ USD. Và thế giới đầu cơ lộ diện thêm một ngôi sao mới. Về sau, có lần Paulson khái quát hóa bí quyết thành công của mình là kiên trì, biết mình và biết thời thế. Nghe đơn giản vậy thôi mà đã có mấy kẻ thực hiện thành công như Paulson đâu.
(Theo Bắc Hà // Báo Doanh nhân)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com