|  | 
| Minh họa: Khều. | 
Những tin bài trên báo chí gần đây về “đại diện vốn nhà nước” cho thấy đây còn là một điểm lúng túng trong cơ chế Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách chủ sở hữu.
Thời kinh tế tập trung bao cấp, kinh tế tư doanh bị xóa sổ, kinh tế  quốc doanh chiếm vị trí độc tôn. Vì Nhà nước vừa là cơ quan quyền lực,  vừa là chủ sở hữu kinh tế quốc doanh, nên quản lý nhà nước và quản lý  kinh doanh gắn chặt với nhau. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, xuất  hiện chủ trương tách quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh các doanh  nghiệp nhà nước. Nếu các cơ quan quản lý ngành tiếp tục thực hiện chức năng quản lý  nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thì cơ quan  nào quản lý các doanh nghiệp nhà nước với tư cách chủ sở hữu? Thực tế  cho thấy các tổng công ty, và sau này là cả các tập đoàn kinh tế, đều  không đảm đương nổi chức năng này. Tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, kỳ vọng được đặt vào Tổng công ty  Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Song, SCIC thực chất cũng chỉ  là công ty nhà nước kinh doanh tài chính, cũng không thể đóng nổi vai  trò chủ sở hữu khu vực doanh nghiệp nhà nước. Cho đến nay vấn đề cơ chế  quản lý doanh nghiệp nhà nước với tư cách chủ sở hữu vẫn chưa định hình,  chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa minh định. Thực ra, Nghị định 25/2009/NĐ-CP về chuyển các doanh nghiệp nhà nước  thành công ty TNHH một thành viên đã đề cập tới vấn đề này khi quy định  cá nhân (Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh) hoặc tổ chức (cơ  quan quản lý ngành ở Trung ương và địa phương) làm chủ sở hữu công ty  TNHH một thành viên. Song quyền hạn, trách nhiệm chủ sở hữu lại chưa quy  định. Vậy mà đã có nghịch lý: quản lý kinh doanh, việc của doanh nhân,  nhưng lại giao cho chính khách cấp quốc gia và cấp tỉnh hoặc lại đưa trở  về cơ quan quản lý nhà nước. Từ ngày 1-7-2010, các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước  chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên. Cho nên vấn đề đại diện  vốn nhà nước chỉ có nghĩa ở những công ty cổ phần có vốn nhà nước thuộc  sở hữu hỗn hợp, không hoàn toàn là Nhà nước, cũng không hoàn toàn là tư  nhân, quyền quản lý của chủ sở hữu tất phải chia sẻ. Chỉ ở đây mới cần phân biệt vốn của Nhà nước với vốn không phải của  Nhà nước, cũng là để phân biệt giới hạn quyền và trách nhiệm của cổ đông  nhà nước với quyền và trách nhiệm của các cổ đông khác. Theo tin báo chí: theo ủy quyền của Nhà nước, SCIC hiện đã quản lý  vốn tại 540 doanh nghiệp, trong đó trực tiếp thực hiện quyền cổ đông tại  22 doanh nghiệp, số còn lại thông qua 600 người đại diện. Trong những  trường hợp này, có cơ sở để khẳng định rằng quan hệ giữa SCIC (cổ đông  nhà nước) với 600 người đại diện kia thực chất là quan hệ chủ-thợ,  trên-dưới. Người đại diện chịu sự chỉ đạo và trong phạm vi đại diện của  mình chịu trách nhiệm trước SCIC. Thế nhưng nhiều người dường như không  nghĩ như thế, mà coi người đại diện là một cấp quản lý trung gian giữa  SCIC với công ty cổ phần. Trong thực tế, với tư cách đại diện vốn nhà nước, người đại diện  thường được cử vào những chức vụ lãnh đạo công ty như chủ tịch hội đồng  quản trị, tổng giám đốc... Những vị trí này cho họ những quyền và trách  nhiệm đối với công ty, vượt quá giới hạn quyền và trách nhiệm cổ đông  nhà nước. Trong trường hợp này, người đại diện đồng thời đóng hai vai trò: đại  diện vốn nhà nước (do nhà nước chỉ định) và người quản lý công ty (do  đại hội đồng cổ đông bầu ra), trở thành giao điểm giữa cơ chế Nhà nước  quản lý công ty với tư cách chủ sở hữu với cơ chế quản lý công ty cổ  phần theo quy định của pháp luật. Với tư cách đại diện vốn nhà nước, họ là người của Nhà nước và có  quan hệ báo cáo - thỉnh thị với Nhà nước (cụ thể là với SCIC). Nhưng với  tư cách người quản lý công ty, họ là người của công ty, có quyền và  trách nhiệm quản lý hoạt động kinh tế của công ty, thay mặt công ty  trong các quan hệ kinh tế với các chủ thể kinh tế bên ngoài và với Nhà  nước. Theo cơ chế quản lý công ty cổ phần quy định trong Luật Doanh nghiệp, bộ máy quản lý công ty gồm: i) Đại hội đồng cổ đông, cơ quan quyền lực cao nhất thể hiện quyền  của các cổ đông (chủ sở hữu). Đại hội đồng cổ đông quyết định các vấn đề  kinh tế của công ty theo túc số biểu quyết quy định trong Luật Doanh  nghiệp và điều lệ công ty, trong đó số lượng phiếu biểu quyết của mỗi cổ  đông tỷ lệ thuận với số lượng cổ phiếu mỗi người sở hữu; ii) Hội đồng quản trị, cơ quan chấp hành của đại hội đồng cổ đông, do  đại hội đồng cổ đông bầu ra và chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ  đông; iii) Tổng giám đốc do hội đồng quản trị bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị. Với cơ chế như vậy, dù Nhà nước là cổ đông đa số (nắm giữ 51% cổ phần  trở lên) cũng không thể quản lý trực tiếp công ty cổ phần, mà phải quản  lý gián tiếp trên cơ sở tôn trọng cơ chế quản lý công ty cổ phần như  nêu trên. Trong thực tế, hiện nay nhiều người hiểu cơ chế quản lý công ty cổ  phần quá đơn giản. Họ cho rằng khi Nhà nước đã là cổ đông đa số, thì Nhà  nước có thể coi công ty cổ phần là doanh nghiệp nhà nước. Đã từng có văn bản xếp công ty cổ phần mà Nhà nước nắm cổ phần chi  phối vào hàng doanh nghiệp nhà nước! Chính vì quan niệm như vậy nên cung  cách quản lý công ty cổ phần sau cổ phần hóa không mấy thay đổi so với  trước cổ phần hóa, trong khi đổi mới quản lý để nâng cao hiệu quả kinh  tế - xã hội của công ty cổ phần mới là mục tiêu quan trọng nhất của cổ  phần hóa. Những điều nêu trên cho thấy cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước với  tư cách chủ sở hữu hầu như vẫn còn đang trong giai đoạn khai phá, mặc dù  vấn đề này đã xuất hiện từ khi các công ty cổ phần có vốn nhà nước hình  thành. Hình như các quan chức có trách nhiệm về đổi mới doanh nghiệp  nhà nước coi việc chuyển được doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ  phần đã là xong việc, mà không thấy được rằng việc xây dựng cơ chế quản  lý vốn nhà nước sau cổ phần hóa mới thật sự nặng nề và khó khăn. Trong  đó, vấn đề cơ sở của mọi vấn đề là ai (cơ quan nhà nước nào) được coi là  chủ sở hữu đến nay vẫn chưa minh định. Chừng nào cơ chế quản lý này còn chưa minh bạch, tình trạng lộng  quyền của đại diện vốn nhà nước còn có đất để tồn tại, tạo điều kiện  khách quan cho tệ tham nhũng nảy nở và lây lan.Chừng nào cơ chế quản lý này còn chưa minh bạch, tình trạng lộng  quyền của đại diện vốn nhà nước còn có đất để tồn tại, tạo điều kiện  khách quan cho tệ tham nhũng nảy nở và lây lan. 
(Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)
|  | 
|  | 
|  | 
|  | 
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com