1. Sự tồn tại của án lệ
Gần đây có một số tài liệu đề cập đến án lệ ở Việt Nam. Nhìn chung, hiện nay tranh luận về án lệ phần nhiều mang tính hàn lâm, lý thuyết. Những người cho rằng nên thừa nhận án lệ như một nguồn của pháp luật thường chỉ dừng lại ở đó và dường như chưa đưa ra được ví dụ cụ thể nào về án lệ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực hợp đồng, có tác giả viết “để thực hiện việc này, về mặt luật pháp cần quy định nguyên tắc thừa nhận án lệ là nguồn giải thích pháp luật. Về mặt thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải thực hiện các bản án tiêu biểu, điển hình của TANDTC để phục vụ cho hoạt động áp dụng pháp luật và công tác xét xử của Tòa án các cấp”[1]. Tuy nhiên, trong bài viết, chúng tôi không thấy nêu một ví dụ cụ thể nào về án lệ. Để tăng tính thuyết phục của quan niệm cho rằng nên coi án lệ là nguồn của pháp luật khi đó là những quy phạm hợp tình, hợp lý, chúng tôi nêu một vài ví dụ về án lệ trong thực tế Việt Nam.
Hình sự hay dân sự
Trong thực tế không hiếm gặp trường hợp giao dịch có vi phạm pháp luật và người vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật hình sự. Ví dụ, chị Mai dùng thủ đoạn để chị Ngọ cho mình vay 40 triệu đồng với lãi suất 5% tháng. Hành vi của chị Mai được tòa án quy về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân. Giao dịch dân sự vay tiền của chị Mai đã vi phạm pháp luật hình sự. Giải quyết vấn đề dân sự như thế nào trong những trường hợp như vậy? Khi giao dịch vi phạm pháp luật và có thể xử lý theo pháp luật hình sự, tòa dân sự (theo nghĩa rộng là lao động, kinh tế, thương mại, dân sự, hôn nhân và gia đình) có phải dừng xử lý giải quyết hay không khi vụ việc được yêu cầu có yếu tố vi phạm pháp luật hình sự? Về vấn đề này, Tòa dân sự TANDTC đã thiết lập một án lệ[2].
Trong một vụ tranh chấp được giám đốc thẩm năm 2003, theo Tòa dân sự TANDTC, “lẽ ra, ngay từ khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm đã phải xác định yêu cầu của bà Thìn và ông Lực không phải là một yêu cầu dân sự hợp pháp, quan hệ giữa bà Thìn và bà Năm có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết theo trình tự dân sự là không đúng thẩm quyền. Tòa án cấp phúc thẩm tuy có bác đơn yêu cầu của bà Thìn và ông Lực nhưng vẫn giải quyết theo trình tự dân sự là không đúng”[3]. Như vậy, Tòa dân sự đã dùng phương pháp loại trừ, nếu hành vi đến mức truy tố trách nhiệm hình sự thì không giải quyết theo tố tụng dân sự.
Tòa dân sự đã không hiếm cơ hội áp dụng giải pháp này. Trong một tranh chấp khác, theo Tòa dân sự, “ông Chính và anh Hùng thống nhất xác định khoản tiền 11 triệu đồng ông Chính chuyển cho anh Hùng là để anh Hùng lo cho người vào đại học bằng con đường không chính đáng. Đây là giao dịch bất hợp pháp, có dấu hiệu phạm tội. Do vậy, vụ án cần được Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) xem xét về trách nhiệm hình sự. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 45 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và chuyển vụ án cho VKSND giải quyết. Trong trường hợp VKSND xác định vụ việc không có dấu hiệu phạm tội hoặc không đến mức phải xử lý bằng trình tự tố tụng hình sự, chuyển cho tòa án giải quyết về dân sự, nếu không buộc anh Hùng trả tiền cho ông Chính thì cũng phải tịch thu số tiền này. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án khi chưa được VKSND xem xét về hình sự và Tòa án cấp phúc thẩm bác yêu cầu đòi tiền của ông Chính đều là không đúng”[4].
Xác định bản chất hợp đồng
Khi giao kết, các bên thường xác định rõ bản chất của hợp đồng. Chẳng hạn, theo các bên, đây là hợp đồng thuê tài sản hay mua bán tài sản. Nhưng đôi khi, bản chất theo các bên xác định không đúng với bản chất thực của hợp đồng. Đối với những hoàn cảnh như vậy, tòa án có quyền xác định lại bản chất của hợp đồng hay không? Cũng như vấn đề trên, ở đây, dường như thực tiễn pháp lý nước ta đã thiết lập một án lệ.
Trên thực tế, quyền của tòa án xác định lại bản chất của hợp đồng được thừa nhận. Ví dụ sau cho thấy điều này:
Ngày 29/08/1996, Hợp tác xã (HTX) Hồng Quang và Công ty Tân Hồng ký hợp đồng liên kết sản xuất với nội dung HTX Hồng Quang góp 1.350m2 nhà xưởng hiện có trên tổng diện tích đất được sử dụng 3.100m2, trị giá khoảng 2 tỷ đồng. Công ty Tân Hồng góp vốn đầu tư xây dựng nâng cấp nhà xưởng, kho tàng phù hợp với nhu cầu sản xuất may xuất khẩu; đầu tư toàn bộ dây chuyền thiết bị, may thêu nguyên vật liệu, phụ tùng thêu may với tổng trị giá khoảng 6 tỷ đồng. Hợp đồng có thời hạn 5 năm kể từ ngày ký, hết hạn sẽ tùy thuộc vào thực tế để ký tiếp. Cùng ngày, hai bên ký phụ lục Hợp đồng số 01 được công chứng với nội dung: Công ty Tân Hồng cho HTX Hồng Quang vay 500 triệu đồng, lãi suất 1,2% tháng, thời hạn vay là 02 năm. Nếu HTX Hồng Quang không thanh toán cho Công ty Tân Hồng trong hạn 02 năm thì Công ty Tân Hồng sẽ trừ dần vào số tiền khấu hao tài sản mà Công ty Tân Hồng trả cho HTX Hồng Quang mỗi tháng 20 triệu đồng; Công ty Tân Hồng nộp cho HTX Hồng Quang 20 triệu đồng /tháng vào ngày 05 đầu tháng, nếu chậm sẽ chịu phạt 2%/tháng. Ngày 10/01/1999, hai bên ký phụ lục hợp đồng số 2 với nội dung: Công ty Tân Hồng đồng ý xóa nợ cho HTX Hồng Quang bằng cách khấu trừ dần số tiền đã cho vay cùng với lãi suất vào việc thanh toán 20 triệu đồng khấu hao tiền nhà xưởng. Tính từ ngày 10/10/1998 đến 10/04/2001 là xóa xong nợ cũ. Kể từ ngày 11/04/2001, Công ty Tân Hồng phải trả cho HTX Hồng Quang 20 triệu đồng /tháng theo nội dung hợp đồng. Cuối năm 2001, hai bên có tranh chấp và kiện ra tòa. Theo Hội đồng Thẩm phán TANDTC, “tuy hợp đồng số 01/HT-HQ ngày 29/08/1996 ghi là hợp đồng liên kết sản xuất nhưng nội dung của phụ lục Hợp đồng số 01 và phụ lục Hợp đồng số 02 đã thể hiện bản chất của hợp đồng là thuê nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất, chứ không phải là liên kết thành lập đơn vị kinh tế theo Quy định về liên kết kinh tế (ban hành kèm theo Quyết định số 38/HĐBT ngày 10-04-1989 của Hội đồng Bộ trưởng)”[5]. Như vậy, Hội đồng thẩm phán đã xác định lại bản chất của hợp đồng có tranh chấp. Cụ thể, các bên cho rằng đây là hợp đồng liên kết sản xuất nhưng Tòa án lại coi đây là hợp đồng thuê nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất. Khi xét như vậy, Hội đồng Thẩm phán không nêu rõ là dựa vào văn bản nào để có quyền xác định lại bản chất của hợp đồng. Do đó, có thể nói, Tòa án đã tự cho mình quyền này. Đây không hẳn đã là đặc thù của pháp luật Việt Nam. ở Pháp, Tòa án tối cao thường nhắc nhở trong quá trình giải quyết giám đốc thẩm là thẩm phán có quyền xác định lại bản chất thực của hợp đồng. Trong thực tế, chúng ta còn thấy nhiều ví dụ khác theo đó Tòa án tự cho mình quyền xác định lại bản chất thực của hợp đồng, do đó có thể coi việc này đã trở thành án lệ[6].
Người nước ngoài mượn tên
Theo Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005T, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác. Việc mua nhà ở tại Việt Nam là một hạn chế đối với người nước ngoài so với công dân Việt Nam. Cụ thểtheo Điều 19 của Nghị định 61-CP ngày 05/07/1994, “cá nhân là người nước ngoài định cư ở Việt Nam được mua một nhà ở của các doanh nghiệp nhà nước chuyên kinh doanh nhà ở của Việt Nam để ở cho bản thân và các thành viên gia đình họ tại địa phương được phép định cư”. Hoặc Khoản 1, Điều 3 của Nghị định số 812001/NĐ-CP ngày 05/11/2001 của Chính phủ quy định: “người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc một trong những đối tượng dưới đây… thì được mua nhà để ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam: a) Người về đầu tư lâu dài tại Việt Nam; b) Người có công đóng góp với đất nước; c) Nhà văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam; d) Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam”.
Nhiều người nước ngoài gốc Việt mua nhà ở tại Việt Nam thông qua tên của người thân vì họ không đủ điều kiện tự mua. Đã xuất hiện tình trạng một thời gian sau khi mua, Việt kiều và người thân có tranh chấp về nhà ở. Văn bản pháp luật hiện không có chế tài cụ thể cho những tranh chấp này nhưng tòa án vẫn phải giải quyết. Trong một vụ việc liên quan đến tranh chấp giữa ông Đức và người thân, Tòa án quyết định “hủy hợp đồng mua bán nhà đất, giao căn nhà (có tranh chấp) cho cơ quan thi hành án tỉnh tổ chức bán đấu giá, tiền bán nhà giao cho ông Đức (Việt kiều) 5.300 USD (tương đương với tiền đã bỏ ra mua nhà). Số còn lại sung vào công quỹ Nhà nước, nếu giá bán thấp hơn số tiền giao cho ông Đức, thì ông Đức nhận theo số tiền bán nhà thực tế”[7].
Như vậy, liên quan đến những trường hợp mà Việt kiều nhờ người khác mua hộ bất động sản do họ không thỏa mãn những điều kiện của pháp luật, khi có tranh chấp thì phát mãi bất động sản để trả cho Việt kiều số tiền, vàng đã bỏ ra nhờ mua giùm, số còn lại sung công quỹ Nhà nước[8]. Quy phạm này được TANDTC và VKSNDTC cùng TAND địa phương áp dụng thường xuyên nên có thể coi đã trở thành án lệ.
2.Giá trị pháp lý của án lệ
Phần vừa rồi cho thấy trong thực tế pháp lý, tòa án đã thiết lập nhiều án lệ[9]. Các quy phạm do TANDTC thiết lập có tính bắt buộc hay không là vấn đề được tranh luận tương đối nhiều ở nước ta[10]. "Về lý luận chưa có một giáo trình luật nào của các trường đại học ở nước ta đề cập đến vấn đề này một cách đầy đủ, khách quan và có hệ thống"[11]
Theo giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường đại học Luật Hà Nội năm 2007 (trang 24, 25) thì "ở nước ta, thực tiễn tư pháp (án lệ) không được nhìn nhận với tư cách là nguồn của pháp luật nói chung và nguồn của tư pháp quốc tế nói riêng. Chỉ có các văn bản pháp quy của Nhà nước mới là nguồn của luật pháp. Điều này khẳng định quan điểm là toà án của Việt Nam là cơ quan xét xử và khi xét xử chỉ tuân theo luật pháp, nó không có quyền ban hành văn bản pháp quy, cũng như án lệ không thể là nguồn của pháp luật Việt Nam nói chung và nguồn của tư pháp quốc tế Việt Nam nói riêng". Tương tự, theo cuốn Từ điển luật học[12], “ở Việt Nam hiện nay, mặc dù hàng năm khi tổng kết công tác xét xử, TANDTC có đưa ra các vụ án điển hình để hướng dẫn tòa án cấp dưới xét xử, tuy nhiên khi lập luận cho quyết định của mình, các thẩm phán vẫn phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, chứ không dựa vào các bản án đã xét xử. Việt Nam không có truyền thống áp dụng án lệ và không coi án lệ là một hình thức pháp luật”.
Nhưng có quan điểm cho rằng, “trong các sách, báo khoa học pháp lý nước ta phổ biến quan niệm coi nguồn của pháp luật là những hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật, nói cách khác là những văn bản pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật. Không coi những án lệ và tập quán pháp là nguồn của pháp luật. Quan niệm như vậy chỉ có tác dụng nhấn mạnh vai trò của những văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống nguồn của pháp luật, nhưng chưa thật đầy đủ và toàn diện. Thực tế ở nước ta trong nhiều trường hợp để quản lý phải dùng đến án lệ ở trình độ khái quát, tổng hợp cao dưới hình thức những văn bản hướng dẫn xét xử của TANDTC”[13]
Lý do công nhận
Theo chúng tôi, nếu hợp tình và hợp lý, những quy phạm được thiết lập bởi TANDTC Việt Nam có tính ràng buộc. Điều đó có nghĩa án lệ là một nguồn của pháp luật khi hợp tình, hợp lý, bởi:
Lý do pháp lý: trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, không một văn bản nào chính thức thừa nhận án lệ là một nguồn của pháp luật và cũng không có văn bản nào khẳng định công khai án lệ không là một nguồn của pháp luật. Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu thừa nhận vai trò pháp lý của án lệ nhưng không đưa ra một văn bản nào để làm cơ sở. Tương tự, giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường đại học Luật Hà Nội và cuốn Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp phủ nhận vai trò này của án lệ, song cũng không dựa vào văn bản cụ thể nào. Do vậy, án lệ có là nguồn của pháp luật hay không cần được giải quyết thông qua giải thích pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này. Khoản 1, Điều 19 Luật Tổ chức TAND năm 2002 quy định "TANDTC có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án"[14]ở đây, dường như Quốc hội đã “ngầm” thừa nhận rằng các văn bản hiện hành của Việt Nam còn không hoàn thiện, đầy đủ, cụ thể, nên đã cho phép và đồng thời bắt buộc TANDTC hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật dường như cũng là cho phép và đồng thời bắt buộc TANDTC thiết lập các quy phạm pháp quy khi cần thiết. Nói cách khác, dường như Quốc hội đã “ngầm” ủy quyền cho TANDTC xây dựng một số quy phạm pháp quy khi cần thiết (khi văn bản pháp luật còn ở dạng “khung” hay còn khiếm khuyết). Những quy phạm được TANDTC thiết lập thông qua các bản án cũng có vai trò hướng dẫn các tòa án địa phương áp dụng thống nhất pháp luật. Và phủ nhận một cách máy móc tính bắt buộc của những quy phạm thiết lập bởi TANDTC dường như cũng là phủ nhận Khoản 1, Điều 19 nói trên.
Lý do thực tiễn: Theo một Chánh án TANDTC, ở nước ta hiện nay đã có những "án lệ ngầm"[15]. Sự khẳng định này không có gì ngạc nhiên như đã trình bày ở phần I. Trên thực tế, các quy phạm thiết lập bởi TANDTC có tính bắt buộc như những quy phạm khác. Nếu không theo các quy phạm thiết lập bởi TANDTC khi xét xử, bản án của toà án địa phương có nhiều khả năng bị huỷ và phải xét lại và để tránh bị huỷ bản án của mình, toà án địa phương buộc phải tôn trọng những quy phạm pháp quy này. Những ví dụ nêu trên là một minh chứng. Như vậy, những quy định do TANDTC xây dựng thông qua những vụ việc tương tự có giá trị bắt buộc trong thực tiễn pháp lý. Tương tự đối với các đương sự trong tranh chấp: bên đương sự không thừa nhận các quy phạm thiết lập bởi TANDTC có nhiều khả năng thua kiện và ngược lại.
Lý do lịch sử: vào những năm 50, khi văn bản pháp luật còn sơ sài và chưa chặt chẽ, pháp luật nước ta cũng đã thừa nhận vai trò của án lệ trong thực tế pháp lý. Theo thông tư số 442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ, "tới nay, các Toà án căn cứ vào những văn bản nói trên và chính sách trừng trị của Chính phủ mà xét xử đem lại kết quả tốt cho việc bảo vệ trật tự, an ninh. Kinh nghiệm xét xử về một số loại phạm pháp đã được trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa phương. Đường lối xét xử do đó không được thống nhất, rõ ràng và có nơi không được đúng. Cần phải thống nhất những án lệ ấy trong quy định chung sau đây để hướng dẫn các Toà án trừng trị một số tội phạm thông thường". Hơn nữa, trong cổ luật Việt Nam, “bên cạnh những điều luật có tính cố định và nhiều khi lỗi thời, nhà làm luật, vì không muốn bộ luật có tính cách quá lý thuyết, không còn phù hợp với nhu cầu của dân chúng, đã phải thêm vào các điều lệ. Lệ bắt nguồn ở những bản án đã được phân xử và tâu lên vua”. Một ví dụ rõ nét về việc sử dụng bản án trong cổ luật Việt Nam có thể thấy được trong Bộ luật Hồng Đức (thế kỷ thứ 15) tại Điều 396. ở đây, chúng ta thấy ghi: “Ông tổ là Phạm Giáp sinh con giai trưởng là Phạm ất, thứ là Phạm Bính. Ông tổ Phạm Giáp có ruộng đất hương hỏa 2 mẫu đã giao cho con trưởng là Phạm ất giữ. Phạm ất đã đem 2 mẫu ấy nhập vào với ruộng đất của mình mà chia cho các con, chỉ còn 5 sào để cho con trai của Phạm ất giữ làm hương hỏa. Con trai của Phạm ất lại sinh toàn con gái mà con thứ là Phạm Bình có con trai lại có cháu trai, thì số 5 sào hương hỏa hiện tại phải giao lại cho con trai, cháu trai Phạm Bình. Nhưng không được đòi lại cho đủ 2 mẫu hương hỏa của tổ trước mà sinh cạnh tranh. Điều 396 trên đây chỉ là một bản án đã được phân xử trong một vụ kiện với tất cả các chi tiết cá biệt như diện tích của phần hương hỏa mà nhà làm luật vẫn giữ y nguyên để cho điều lệ có tính các cụ thể và dễ hiểu’[16]. Như vậy, việc khai thác các bản án không xa lạ ở Việt Nam chúng ta.
Xu hướng chung: ngoài những lý do trên, chúng ta có thể nói thêm là xu hướng thừa nhận vai trò của án lệ ngày phát triển ở Việt Nam. Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp là “TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ...”. Chủ thể tham gia thực tiễn xét xử ngày càng quan tâm và thừa nhận vai trò của án lệ. Chẳng hạn, trong tham luận mới đây của Tòa dân sự TANDTC, liên quan đến vấn đề tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch không hợp pháp, sau khi khẳng định “cho đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào quy định phải tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch không hợp pháp”, tham luận đã kết luận rằng: “vấn đề này cũng đã có án lệ của Hội đồng thẩm phán TANDTC”[17]. Hiện nay, một số luật gia đã tạo ra trang web “sưu tầm án lệ Việt Nam” với các mục như “án lệ trong các lĩnh vực”, “bình luận án lệ”...[18].
Điều kiện công nhận
Nếu những quy phạm được TANDTC thiết lập là hợp tình, hợp lý thì chúng ta nên coi những quy phạm này như những quy phạm pháp quy khác, tức thừa nhận án lệ là một nguồn của pháp luật. Chẳng hạn, theo án lệ đã được nêu trong phần I, việc Tòa án có quyền xác định lại bản chất của hợp đồng là một quy phạm hợp tình và hợp lý. Vì vậy, chúng ta nên coi đó là một quy phạm có tính ràng buộc như những quy phạm khác. Tuy nhiên, không phải án lệ nào cũng hợp tình, hợp lý. Do vậy, những quy phạm tiềm ẩn trong án lệ này nên được thay đổi. Án lệ liên quan đến thẩm quyền của Tòa dân sự khi vụ việc có yếu tố hình sự là một ví dụ cụ thể. Khi trích dẫn Quyết định 48/GĐT -DS năm 2003, ông Nguyễn Văn Cường có nêu rằng, “theo chúng tôi, Tòa dân sự TANDTC đã chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra của Bộ Công an để xem xét theo thủ tục tố tụng hình sự là đúng pháp luật”[19]. Tuy nhiên, thiết nghĩ nên cho phép các đương sự lựa chọn việc giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự chứ không nên nhất thiết buộc họ phải xử lý hình sự trước. Cụ thể, việc buộc phải giải quyết theo tố tụng hình sự sẽ buộc chuyển hồ sơ sang thủ tục hình sự. Điều này sẽ làm mất thêm thời gian và tốn kém cho nạn nhân. Trên góc độ văn bản, pháp luật không có quy định là phải chuyển hồ sơ sang thủ tục hình sự. Hơn nữa, vấn đề dân sự và vấn đề hình sự được điều chỉnh bởi hai loại quy phạm tương đối độc lập, trong khi đó Tòa dân sự chuyên về dân sự nên giải quyết sẽ tốt. Một người hoàn toàn có thể không bị áp dụng chế tài hình sự nhưng vẫn có thể bị chịu chế tài dân sự. Do vậy, án lệ của Tòa dân sự về vấn đề này là không hợp tình. Trừ trường hợp ngoại lệ, thiết nghĩ giải pháp có tính thuyết phục hơn sẽ là cho phép giải quyết dân sự theo thủ tục dân sự ngay cả khi có yếu tố hình sự.
Trong quyết định năm 2002, Tòa dân sự viện dẫn quy phạm theo đó toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trong những trường hợp cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự (điểm d khoản 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, tương đương với khoản 4 Điều 189 BLTTDS[20]). Xét về góc độ pháp lý thì việc đình chỉ này chưa hẳn đã là hợp lý. Quy phạm này dường như chỉ phù hợp khi vụ việc đang được xử lý trên góc độ hình sự trong khi đó các trường hợp được Tòa dân sự giải quyết chưa được thụ lý theo thủ tục hình sự. Hơn nữa, theo quy định trên thì việc thủ tục dân sự bị đình chỉ khi cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự. Như đã nói ở trên, nhìn chung những quy định về dân sự hoàn toàn có thể được áp dụng độc lập nên không nhất thiết là khi có dấu hiệu hình sự chúng ta phải đợi kết quả của việc giải quyết theo tố tụng hình trước. Với cách giải quyết như Tòa dân sự, chúng ta không bảo vệ một cách hiệu quả người bị thiệt hại mà là phần nào bảo vệ người gây thiệt hại. Vẫn về góc độ văn bản, trong Quyết định năm 2006, Tòa dân sự lại viện dẫn Điều 192 (về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự) và Điều 168 (về trả lại đơn khởi kiện) của BLTTDS. Việc không thống nhất trong việc viện dẫn cơ sở pháp lý (văn bản) cho thấy những cơ sở pháp lý đó chỉ là cái cớ, phương tiện để áp dụng một giải pháp mà Tòa dân sự muốn áp dụng. Khi nghiên cứu hai điều luật trên của Bộ luật Tố tụng dân sự, chúng ta không thấy hoàn cảnh mà chúng ta đang xem xét trong danh sách những vụ việc Tòa án phải đình chỉ và trả lại đơn. Thiết nghĩ, việc này liên quan đến tố tụng hình sự và dân sự nên vượt quá tầm xem xét của Tòa dân sự TANDTC. Do đó, TANDTC và VKSNDTC nên kết hợp đưa ra một giải pháp chung và nên theo hướng vẫn cho phép Tòa dân sự xử lý vụ việc.
(Theo TS. Đỗ Văn Đại, Đỗ Văn Kha // Báo Nghiên cứu Lập Pháp Online)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com