Sự kiện hãng hàng không Nhật Bản Japan Airlines (JAL) và hai công ty con của hãng đệ đơn xin bảo hộ phá sản lên Tòa án quận Tokyo hôm 19/1 đã gây chấn động dư luận.
Đây là một vụ phá sản lớn nhất của một doanh nghiệp không thuộc ngành tài chính tại Nhật Bản, khi tổng nghĩa vụ nợ của JAL, bao gồm cả các công ty con, lên tới 2.320 tỷ yen, vượt qua con số kỷ lục 1.870 tỷ yen trong vụ phá sản của 22 doanh nghiệp thuộc tập đoàn Sogo Group hồi năm 2000.
JAL từng được coi là biểu tượng về sự thành công kinh tế và sự phồn thịnh của Nhật Bản trong những năm 1970-1980.
Vì vậy, thông tin JAL nộp đơn xin bảo hộ phá sản đã khiến nhiều người thực sự sốc. Vậy đâu là nguyên nhân thực sự dẫn tới sự sụp đổ của hãng hàng không lớn nhất Nhật Bản này? Quá phụ thuộc vào Nhà nước
Khi mới thành lập, JAL là một hãng hàng không Nhà nước. Cho đến năm 1986, JAL vẫn độc quyền tiến hành các chuyến bay quốc tế và điều hành các chuyên cơ riêng cho gia đình Hoàng gia và các nhân vật quan trọng khác ở Nhật Bản. Ngay cả khi được tư hữu hoá vào năm 1987, JAL vẫn có mối quan hệ mật thiết với Chính phủ.
Hãng hàng không này vẫn là nơi làm việc ưa thích của các quan chức Nhà nước khi đến tuổi nghỉ hưu theo amakudari - một thông lệ phổ biến ở Nhật Bản, trong đó các quan chức Nhà nước sau khi nghỉ hưu sẽ được bố trí làm việc tại các công ty và cơ quan trong ngành mình quản lý trước đây.
Cho đến trước khi ông Isao Kaneko được bổ nhiệm để giữ đồng thời các chức vụ Chủ tịch và Giám đốc Điều hành JAL vào năm 1998, các cựu quan chức Nhà nước cao cấp thường giữ một trong hai chức vụ này.
Trụ sở chính cũ của JAL nằm ở quận Marunouchi của thủ đô Tokyo vẫn thường được gọi một cách đầy giễu cợt là “văn phòng chi nhánh của Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch” - cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp của hãng hàng không này.
Một cựu thành viên Ban Điều hành JAL cho biết JAL có liên quan tới nhiều công việc của các cơ quan quản lý Nhà nước như thống kê các số liệu về thẻ lên và xuống máy bay cũng như việc xây dựng quy định về giá vé máy bay.
Theo tờ Yomiuri, để đổi lại các công việc trên, JAL đã được nhận rất nhiều “phần thưởng” từ phía Chính phủ Nhật Bản. Một trong những “phần thưởng” như vậy là việc được giao điều phối các khu vực hạ cánh cho các đường bay quốc tế xuất phát từ Nhật Bản theo yêu cầu của Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch.
Bộ phận hành chính thực hiện nhiệm vụ này nằm trong trụ sở của JAL cho đến khi nhiệm vụ này được chuyển giao cho một công ty thứ ba vào năm 2008. Trong một thời gian dài, 5 trong số các thành viên của bộ phận này là người của JAL. Người ta nghi ngờ các thông tin về hãng hàng không All Nippon Airways (ANA) - đối thủ cạnh tranh chính của JAL - có thể đã rơi vào tay hãng hàng không này.
Sự sụp đổ đã được báo trước
Trong báo cáo lưu hành nội bộ vào tháng 6/2005, ban lãnh đạo JAL đã mô tả về bức tranh đầy khắc nghiệt của hãng hàng không này khi viết: “Chúng tôi lo sợ rằng JAL đang trong tình huống đe dọa sự tồn tại của chính hãng hàng không này”.
Ban lãnh đạo JAL cũng chỉ ra các điểm yếu trong hoạt động kinh doanh của hãng hàng không lớn nhất Nhật Bản này so với ANA, trong đó đáng chú ý là chi phí hoạt động của JAL cao - vấn đề đã gây ra những khó khăn hiện nay của hãng hàng không này.
Ban lãnh đạo JAL cũng khẳng định hãng hàng không này chưa nhận thức đầy đủ về các khoản lợi nhuận của một doanh nghiệp tư nhân; lợi nhuận của các đường bay quốc tế đang bị suy giảm nghiêm trọng; JAL thất bại trong việc loại bỏ các máy bay cỡ lớn và lỗi thời nhanh như ANA đã làm; và rằng tổng chi phí nhân công của JAL cao gấp 2 lần so với đối thủ.
Mặc dù nhận thức được nguy cơ và các điểm yếu đó nhưng ban lãnh đạo JAL không đưa ra được các biện pháp quyết liệt để đối phó với nguy cơ này.
Năm 1983, JAL đã từng qua mặt hãng hàng không Pan American Airways để trở thành hãng vận tải hàng không hàng đầu thế giới. Một cựu nhân viên của JAL cho biết tại thời điểm đó, tất cả các nhân viên của hãng hàng không này “đều tự hào rằng JAL là hãng hàng không số 1 thế giới và có những chiếc máy bay lớn nhất thế giới”.
Tuy nhiên, số lượng các chuyến bay lỗ tăng nhanh do JAL tăng quá nhanh số lượng các chuyến bay. Cựu nhân viên JAL phân tích: “Chúng tôi là hãng hàng không số 1 thế giới nhưng chúng tôi không quan tâm tới lợi nhuận”.
Do những thành công mang tính hình thức này, ban lãnh đạo JAL đã không kịp thời chuyển mô hình kinh doanh từ hãng vận tải hàng không quy mô lớn - một mô hình mà JAL áp dụng khi giá dầu vẫn còn thấp - sang mô hình mới hiệu quả hơn khi giá dầu tăng mạnh. Đến cuối năm 2009, JAL có tới 36 máy bay cỡ lớn, trong khi ANA chỉ có 13 chiếc.
Trong nỗ lực vực dậy JAL, Tập đoàn Sáng kiến Chấn hưng Doanh nghiệp (ETIC) - đơn vị chịu trách nhiệm chính trong việc vực dậy hãng hàng không này - đã đưa ra đề xuất rằng JAL cần phải bán tất cả các máy bay cỡ lớn này.
Ông Mitsuhiro Kusumi, người đã từng giữ các chức vụ Giám đốc Bộ phận Bay Quốc tế và Phó Giám đốc Bộ phận Kế hoạch của JAL, đã chỉ ra rằng chính các nghiệp đoàn của JAL đã ngăn cản các nỗ lực cắt giảm chi phí của hãng hàng không này. JAL đã nhận thức được sự cần thiết phải cắt giảm lương của phi hành đoàn.
Tuy nhiên, do lo ngại về phản ứng từ các nghiệp đoàn, hãng hàng không này vẫn cam kết chi trả cho các phi công tiền công cho 65 giờ bay bất chấp số giờ bay thực tế của các phi công là bao nhiêu. Đây là nguyên nhân chính khiến chi phí nhân công của JAL đứng ở mức cao.
JAL hiện có 8 nghiệp đoàn và mối quan hệ giữa các nghiệp đoàn này rất phức tạp. Sở dĩ JAL có số lượng nghiệp đoàn lớn như vậy là do ban lãnh đạo JAL liên tục can thiệp vào việc chia tách các nghiệp đoàn này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành hãng.
Bên cạnh đó, năm 2002, JAL đã tiếp nhận thêm Japan Air System Co. làm công ty con. Trong kế hoạch phục hồi JAL, ETIC khẳng định sự cần thiết phải tái cơ cấu JAL thành “một tổ chức có thể nhanh chóng phản ứng với môi trường kinh doanh đang thay đổi, với lực lượng lao động giữ vai trò chính trong việc ra quyết định”.
Tuy nhiên, chừng nào JAL vẫn còn 8 nghiệp đoàn riêng rẽ, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng kế hoạch của ETIC sẽ rất khó khả thi./.
Sở hữu những ngôi nhà và những xế hộp đắt tiền, giới giàu có và nổi tiếng còn chi tiền cho một số công việc giúp cho cuộc sống thường nhật của họ tiện nghi hơn.
Sản phẩm “Burger cơm” đang được phát triển và có kế hoạch mở rộng tại các siêu thị tại Tp.HCM và Hà Nội, theo ý tưởng của nhóm bạn trẻ tại Tp.HCM.
Khởi nghiệp từ tháng 2/2010, chỉ trong nửa năm đầu tiên, Krystal O'Mara đã ghi tên mình vào danh sách những doanh nhân khởi nghiệp thành công nhất với thành tích Công ty Tư vấn – Thiết kế nội thất sinh thái ReMain mà cô là nhà sáng lập trở thành thương hiệu dẫn đầu trong nhiều tuần tại thị trường Bắc Mỹ.
Kinh doanh chocolate không mới, chính vì thế gắn chocolate với nghệ thuật nhằm thu hút khách là một thách thức thú vị đối với những doanh nghiệp trẻ như D’ Art Chocolate.
Điện toán kết hợp với một lĩnh vực chuyên môn khác đang mở ra một chân trời mới cho những nghề tưởng như rất bình thường, đôi khi nhàm chán. Ở Mỹ, những công việc có sự kết hợp như vậy gọi là nghề “lai” và được xem là xu hướng trong tương lai.
Đây là lợi nhuận hằng năm dương đầu tiên của Ford sau 4 năm kể từ năm 2005. Các nhà phân tích dự báo Ford sẽ vấn duy trì được “phong độ” này trong năm 2010.
Hãng nghiên cứu Gartner vừa công bố bản báo cáo đặc biệt về “Những dự báo sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) từ năm 2010 trở đi”. Những dự báo đó là gì và sẽ ảnh hưởng đến lĩnh vực này như thế nào? Đây cũng là nguồn dữ liệu mà các giám đốc CNTT, giới lãnh đạo doanh nghiệp có thể tham khảo để lập ra kế hoạch phát triển cho doanh nghiệp của mình trong năm 2010 và trong vài năm tới.
Trên thế giới, hoạt động mua bán và sáp nhập DN (M&A) năm 2009 sụt giảm mạnh, nhưng ở Việt Nam lại có tín hiệu tăng và năm 2010 được dự báo tiếp tục tăng, nhất là M&A thông qua TTCK.
Chưa bao giờ những cụm từ “khủng hoảng”, “suy thoái”, “khó khăn” xuất hiện trong mặt báo nhiều như trong năm 2009, khi nói về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi những sản phẩm Coca-Cola in tên tràn ngập mạng xã hội và phong trào chụp ảnh khoe tên không ngừng lan tỏa, chiến dịch “Share a Coke” của Coca-Cola đã trở thành chủ đề được bàn luận nhiều nhất trong giới làm kinh doanh và tiếp thị.
Sau 97 năm nằm dưới sự sở hữu của gia đình sáng lập, công ty truyền thông Forbes Media cách đây ít hôm tuyên bố đã bán cổ phần đa số cho một nhóm nhà đầu tư quốc tế có trụ sở ở Hồng Kông.
Dường như thời kỳ 'nổi như cồn' và 'nổ như pháo' của anh em Bầu Thụy - Bầu Thủy được mọi người biết đến cả danh tiếng và tai tiếng đã qua. Hai doanh nhân trẻ tuổi đang ẩn sâu và kín tiếng hơn.
Ai cũng được cho cơ hội để có thể trở nên giàu có như nhau. Vấn đề duy nhất ở đây là, suy nghĩ, quan niệm về tiền bạc của mỗi người khác nhau, từ đó dẫn đến kết quả khác nhau cho mỗi người.
Việc nhiều tập đoàn vung tiền "khủng" để rước các Giám đốc điều hành (CEO) thuộc hạng "siêu sao" về làm việc có thể là quyết định sai lầm nghiêm trọng dẫn đến sụt giảm hiệu suất kinh doanh của chính họ.