Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Bàn về rủi ro và khủng hoảng tín dụng tiêu dùng

Tín dụng tiêu dùng sẽ là cuộc khủng hoảng tiếp theo?
( Hoàng Đăng dịch //Bài viết của William Jarvis và Ian C. MacMillan trên Harvard Business Review // Theo Tuanvietnam)

 Việc người tiêu dùng đang vay nợ đến mức kỷ lục để mua hàng hóa và dịch vụ, mặc cho các công ty bán hàng đang khó khăn,đôi khi sẽ là mối họa chí mạng.

Một công ty gỗ nội thất tung ra chương trình khuyến mãi sử dụng sản phẩm mà không phải đặt cọc hay thanh toán hàng hóa trong một năm. Người tiêu dùng vui mừng đón nhận hình thức tín dụng miễn phí này. Doanh số bán hàng tăng vọt. Với tổng doanh thu đang tăng nhanh làm vật đảm bảo, công ty bắt đầu vay ngân hàng để mở cửa hiệu thứ hai và hy vọng sẽ trả tiền cho ngân hàng, nhà cung cấp và nhân viên bằng các khoảng doanh thu trong tương lai.

Tín dụng tiêu dùngNhưng không may, đây không phải là hình thức tài trợ mà khách hàng hiện tại cũng như tiềm năng của công ty đang sử dụng. Thay vì thanh toán hóa đơn thẻ tín dụng mỗi tháng, ngày càng nhiều người tích dồn số dư và mặc cho nó tăng dần. Người ta dùng khoản vay kỳ hạn 72 tháng để mua ô tô mới. Họ chỉ bắt đầu chi trả cho các thiết bị gia dụng sau 12 tháng sử dụng và còn có nhiều hợp đồng kiểu mua-trước-trả-sau khác. Họ dùng hạn mức tín dụng nhà ở để đi du lịch.

Khi họ phải dành ra ngày càng nhiều thu nhập khả dụng của mình để chi trả các khoản nợ, các khoản mua sắm mới cũng sụt giảm đột ngột. Nhiều người bắt đầu tuyên bố không còn khả năng thanh toán các loại thẻ tín dụng, biến các khoản mua sắm trong quá khứ thành nợ khó đòi trong hiện tại.

Doanh số bán hàng của cửa hiệu gỗ nội thất sụt giảm nghiêm trọng, họ phải đóng cửa hiệu thứ hai, sa thải nhân công. Việc này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân cửa hiệu bán lẻ mà còn đến cả các nhà cung cấp và chủ cho vay của nó mà trong đó có vài công ty không còn tồn tại nữa. Cựu nhân viên cũng như các công ty khác làm ăn với những nhà cung cấp xấu số ấy cũng cảm thấy bị ảnh hưởng.

Mở rộng viễn cảnh này ra một chút, người tiêu dùng đã phụ thuộc vào các khoản tín dụng rẻ tiền và dễ dàng đến độ điều này đã trở thành mối hiểm họa lớn chưa từng có cho nền kinh tế. Hiếm có công ty nào miễn nhiễm với rủi ro. Người tiêu dùng đang vay nợ đến mức kỷ lục để mua hàng hóa và dịch vụ, mặc cho các công ty bán hàng cho họ đang lâm vào hiểm nguy, đôi khi còn mang họa chí mạng.

Nhưng may thay, người ta có thể chuẩn đoán, phân tích và quản lý “kẻ sát nhân” này. Một bảng phân tích với các chỉ số đơn giản có thể giúp bạn nhận biết những dấu hiệu cảnh báo về rủi ro đòn bẩy tiêu dùng (Consumer Leverage Exposure - CLE) và hành động để ngăn chặn từ xa phần lớn tác động phá hoại của nó lên công ty. Nhà quản lý nào phớt lờ các dấu hiệu cảnh báo ấy và mặc cho công ty nguy khốn thì thật đáng trách.

Rủi ro đòn bẩy tiêu dùng là gì?

Cũng giống như người giám đốc tài chính đánh giá tỷ lệ đòn bẩy của doanh nghiệp bằng lấy nợ chia thu nhập, chúng ta đo lường tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng bằng cách lấy tổng nợ của các hộ gia đình chia cho tổng thu nhập khả dụng của từng cá nhân. Cụ thể, đó là một phép tính về hiện nay người tiêu dùng Mỹ đang mắc nợ bao nhiêu ở dạng nợ thẻ tín dụng, nợ thế chấp, vay mua nhà, vay mua ôtô và vay học hành so với khả năng họ có thể trả hết khoản nợ đó. Khi cuộc triển lãm mang tên “Nợ tiêu dùng chồng chất” mở ra, tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng dừng ở mức 1.30, giảm đôi chút so với mức cao kỷ lục 1.33 vào cuối quý đầu năm 2008.

Đó là một con số đáng sợ: Phải mất 1,3 năm người tiêu dùng mới trả hết số nợ hiện tại bằng thu nhập sau thuế của mình, với điều kiện là họ hoàn toàn không tiêu xài số thu nhập trên vào bất kỳ khoản nào khác. Điều đó đồng nghĩa với không mua sắm quần áo, thức ăn, cà phê Starbucks hay bất cứ thứ gì khác trong suốt 16 tháng. Điều đáng sợ hơn chính là việc tỷ lệ này liên tục gia tăng trong suốt 35 năm qua, nhất là từ năm 2000.

Các nhà quản lý nên thực sự băn khoăn trước những số liệu thống kê trên bởi lợi nhuận và dòng ngân lưu của gần như tất cả công ty ở Mỹ đều được xây dựng trên chi tiêu tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp, điều này có nghĩa tính thất thường của tín dụng tiêu dùng thực sự là mối nguy hại nghiêm trọng cho các công ty.

Nhưng mối liên kết này không phải lúc nào cũng rõ ràng. Có bao nhiêu khách hàng trung thành của siêu thị chi trả thức ăn bằng thẻ tín dụng thay vì thẻ ghi nợ? Có bao nhiêu người bám víu vào hạn mức tín dụng tài sản nhà ở để chi trả cho kỳ nghỉ, bộ sofa mới hay chiếc máy sấy hơi nước tiên tiến của mình? Có bao nhiêu người dù nhận ra họ đang trên đà phá sản nhưng vẫn ra sức chi tiêu? Có bao nhiêu công ty không hề nhận biết mối liên kết gián tiếp giữa họ với những người tiêu dùng “nợ như chúa Chổm” ấy thông qua đại lý phân phối, cửa hàng bán lẻ và các tổ chức tài chính?

Ai rủi ro nhất trong khủng hoảng tín dụng tiêu dùng?
( Hoàng Đăng dịch //Bài viết của William Jarvis và Ian C. MacMillan trên Harvard Business Review // Theo Tuanvietnam)

Ba nhóm rủi ro đòn bẩy tiêu dùng và hai rủi ro cơ cấu đã làm tiêu tan các khoản lợi nhuận, thậm chí là sự tồn vong, của nhiều công ty trong năm qua.

Các công ty tài trợ cho chi tiêu của khách hàng

Theo lẽ tự nhiên, một công ty càng trực tiếp tham gia vào việc cấp tín dụng tiêu dùng cho khách hàng thì nó càng dễ bị tổn thương trước tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng. Những công ty trực tiếp tài trợ cho các khoản mua sắm của khách hàng sẽ lâm vào cảnh không còn phương án cứu chữa một khi khách hàng hết hạn mức tín dụng và phải cắt giảm chi tiêu.

Đây là kịch bản chung cho những công ty bán hàng tiêu dùng giá trị cao như ôtô, gỗ nội thất, đồ điện tử và đồ gia dụng. Khi kinh tế suy thoái, các công ty này phải đối mặt với ba khó khăn cùng lúc.

Thứ nhất, doanh số sản phẩm sụt giảm nhanh chóng. Đồng thời, khoản thu nhập lãi vay từ hoạt động tài trợ doanh số bán hàng mới trong tương lai thường có ý nghĩa rất quan trọng, nay cũng tụt giảm. Và sau cùng, việc người tiêu dùng vỡ nợ và không thể thanh toán các khoản mua sắm trước đây khiến dòng thu nhập từ hoạt động bán hàng này lâm nguy.

Các nhà quản lý trong những ngành nghề nói trên cần làm việc cật lực để tìm ra cách hạn chế mức độ phụ thuộc của công ty vào những dòng doanh thu như thế. Hay ít nhất họ cũng nên lường trước tình huống lợi nhuận sụt giảm, xem nó như một dạng rủi ro đòn bẩy tiêu dùng không thể tránh khỏi trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay.

Các công ty chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng

Creditcard-thẻ tín dụng- nợ tín dụngCác nghiên cứu đã cho thấy khi có thẻ tín dụng, người tiêu dùng thường tiêu xài nhiều hơn so với khi họ chỉ có tiền mặt; do đó, một sự thay đổi dù là rất khiêm tốn của tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng cũng gây ảnh hưởng lớn đến doanh thu và lợi nhuận của công ty. Sự bất ổn trong chi tiêu này có thể khiến các nhà quản lý trên khắp thế giới lo ngại thực sự.

Hơn nữa, tỷ lệ vỡ nợ tăng sẽ đẩy mức phí tại các công ty thẻ tín dụng lên cao hơn bởi họ phải cố gắng dự phòng cho ngày càng nhiều rủi ro. Điều gây khó khăn ở đây không chỉ là số người vỡ nợ mà số tiền vỡ nợ đang ngày một gia tăng. Do nhiều khách hàng chưa tận dụng hết hạn mức tín dụng của mình nên khả năng những khoản nợ này tiếp tục tăng vẫn còn rất cao.

Do các công ty thẻ tín dụng đang đặt ra hạn mức và một mức phí mới cho cả người tiêu dùng và các công ty bán lẻ để dự trù chi phí cho các trường hợp phá sản và để tuân thủ theo nguồn luật điều chỉnh mới, chúng tôi tin rằng doanh số bán lẻ và lợi nhuận của các công ty sẽ giảm sút nghiêm trọng. Nếu công ty bạn cũng gặp nguy hiểm trước loại đòn bẩy tiêu dùng này, bạn cần nhanh chóng gia tăng lượng tài sản dự trữ từ lúc này.

Các công ty trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng

Nhiều công ty tạo ra nguồn thu nhập lành mạnh từ việc tạo ra, tái đóng gói và mua hoặc bán tín dụng tiêu dùng. Các công ty tài chính, công ty phát hành thẻ tín dụng, ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty quản lý tài sản và quỹ hưu trí, và còn nhiều công ty khác nữa, đều sẽ chịu tác động trực tiếp của rủi ro đòn bẩy tiêu dùng.

Trong giai đoạn suy thoái, khi tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng cao, dòng doanh thu có thể cạn kiện nhanh chóng khi người tiêu dùng ngưng tìm kiếm nguồn tín dụng mới vì gánh nặng nợ nần, còn ngân hàng cũng giới hạn cho vay so với trước kia. Khi những khách hàng được tiếng là đáng tin cậy trước kia bị vỡ nợ, các sản phẩm chứng khoán hóa cũng mất giá nhanh chóng và quá trình chứng khoán hóa các sản phẩm mới cũng chậm đi, từ đó góp phần ngăn chặn tốc độ làn truyền hay phát tán rủi ro.

Hơn nữa, do thẻ tín dụng không giống như vay cầm cố hay vay mua xe vì không được bảo lãnh bằng vật chế chấp, nên những công ty thẻ tín dụng hiếm khi thu hồi được tiền nếu người dùng thẻ của họ phá sản. Có thể cuộc khủng hoảng nhà ở đã chấm dứt nhưng cuộc khủng hoảng tín dụng đang đến: do đó, các nhà quản lý tài chính cần trụ vững trước số lượng phá sản tiêu dùng cao kỷ lục với những khoản tiền cao kỷ lục.

Các công ty có tỷ lệ đòn bẩy quá cao

Khó khăn với đòn bẩy tiêu dùng còn tăng lên gấp bội khi bản thân công ty lại quá lệ thuộc vào vay nợ, như ví dụ của chúng tôi về một công ty bán lẻ gỗ nội thất. Độ tín nhiệm tiêu dùng đi xuống nhanh chóng đưa công ty vào cảnh phá sản bởi vỡ nợ tiêu dùng và doanh số tụt giảm đã triệt tiêu khả năng trả lại các khoản vay của công ty.

Nhiều công ty từng tham gia cuộc bùng nổ cho vay đòn bẩy vào nửa đầu thập niên 2000 hiện đang gánh một số nợ khổng lồ trong cấu trúc vốn và đặc biệt dễ tổn thương trước loại rủi ro này bởi chúng phụ thuộc quá nhiều vào doanh số bán hàng để trả lãi vay các khoản nợ. (Nhưng trái lại, nhiều công ty về công nghệ ra đời từ nguồn vốn đầu tư mạo hiểm lại gần như không hề mắc nợ, điều này giúp cho rủi ro đòn bẩy tiêu dùng ít nguy hại hơn với những công ty này).

Chúng tôi tin rằng chính hiện tượng đòn bẩy kép này, trong đó đòn bẩy công ty còn nguy hại hơn đòn bẩy tiêu dùng, sẽ đánh gục một số tập đoàn có lịch sử lâu đời nhất thế giới.

Các công ty trong những ngành nguy hiểm

Với các số liệu thống kê, chúng ta có thể đánh giá lĩnh vực nào bị ảnh hướng lớn nhất bởi rủi ro đòn bẩy tiêu dùng. Bảng “Ai chịu nhiều rủi ro nhất?” cho chúng ta biết 10 lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trước những thay đổi về tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng.

1: Hàng tiêu dùng không thiết yếu (Consumer Discretionary): gồm những nhóm hàng tiêu dùng nhạy cảm với chu kì của nền kinh tế như: xe hơi, hàng gia dụng lâu bền (đồ điện tử gia dụng), hàng may mặc và các thiết bị giải trí, giáo dục. Nhóm dịch vụ bao gồm khách sạn, nhà hàng, trung tâm giải trí, truyền thông.

2: Hàng tiêu dùng thiết yếu (Consumer Staples): bao gồm các công ty sản xuất và phân phối lương thực, thực phẩm, nước giải khát, thuốc lá và các sản phẩm gia dụng không lâu bền, các vật dụng cá nhân. Nó cũng bao gồm các siêu thị, trung tâm bán lẻ thực phẩm và thuốc.

3: Công nghệ thông tin (Information Technology): bao gồm các công ty nghiên cứu và sản xuất phần mềm cùng các dịch vụ liên quan và các công ty sản xuất các thiết bị công nghệ phần cứng cùng các công ty sản xuất chất bán dẫn và thiết bị bán dẫn.

4: Dịch vụ tài chính (Financial Services): gồm các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư tài chính và bất động sản, các công ty cung cấp các dịch vụ tài chính khác.

5: Dịch vụ điện nước (Utilities): gồm các công ty sản xuất và phân phối điện năng, các công ty quản lý hệ thống nước, gas sinh hoạt.

6: Chăm sóc sức khỏe (Health Care): bao gồm các công ty cung cấp các dịch vụ, thiết bị chăm sóc sức khoẻ và các công ty nghiên cứu, phát triển sản xuất dược phẩm và các sản phẩm công nghệ sinh học.

7: Năng lượng (Energy): bao gồm các công ty thăm dò, khai thác, chế biến, vận tải... các sản phẩm dầu khí, than đá, nhiên liệu, chất đốt.

8: Viễn thông (Telecommunications): gồm các công ty cung cấp các dịch vụ viễn thông như: dịch vụ viễn thông cố định, không dây, băng thông rộng...

9: Công nghiệp (Industrials): gồm các công ty chế tạo các loại máy móc công nghiệp, thiết bị điện; công nghiệp quốc phòng, xây dựng, giao thông vận tải cùng các dịch vụ liên quan.

10: Nguyên vật liệu (Materials): đây là một nhóm ngành rộng bao gồm các công ty hoá chất, vật liệu xây dựng, kính, giấy, lâm sản; các công ty khai mỏ và luyện kim; các công ty sản xuất các sản phẩm bao bì đóng gói (gồm cả bao bì giấy, kim loại, thuỷ tinh).

Đối phó với rủi ro khủng hoảng tín dụng tiêu dùng
( Hoàng Đăng dịch //Bài viết của William Jarvis và Ian C. MacMillan trên Harvard Business Review // Theo Tuanvietnam)

Không chỉ giữa các ngành mà giữa các công ty với nhau, đều có sự nhạy cảm khác nhau trước đòn bẩy tiêu dùng. Do đó, bước đầu tiên trong quản lý rủi ro đòn bẩy tiêu dùng là hãy nhìn một cách lạnh lùng và nghiêm túc vào chính xác bộ phận nhạy cảm nhất với mức vay nợ của khách hàng. Sau đó bình tĩnh xem xét lại cấu trúc chi phí của công ty.

Rõ ràng bạn phải bắt đầu từ những doanh thu phát sinh trực tiếp từ người tiêu dùng. Do đó, dĩ nhiên hai chức năng marketing và bán hàng của công ty phải đánh giá được người tiêu dùng đóng góp bao nhiêu phần trăm vào doanh thu của công ty (trái với hình thức bán hàng B2B) cũng như mức độ tài trợ của công ty đối với những giao dịch mua của khách hàng.

Hai chức năng marketing và bán hàng cũng cần tập trung nghiên cứu sự thay đổi trong thói quen tiêu xài của người tiêu dùng ảnh hưởng ra sao đến doanh số của công ty. Và họ cũng nên theo dõi tỷ lệ vỡ nợ vay tiêu dùng và xu hướng suy giảm điểm tín dụng tiêu dùng.

Nhân viên tài chính và kế toán của công ty cần theo sát yếu tố thời gian cần thiết để thu hồi các khoản phải thu từ khách hàng và xu hướng của tỷ lệ giao dịch mua được thực hiện bằng thẻ tín dụng so với tiền mặt. Họ cũng nên điều chỉnh khoản dự trữ của công ty cho thua lỗ từ các món nợ xấu đồng thời hiệu chỉnh các điều khoản tín dụng tiêu dùng (nếu cần thiết). Và, ở cấp tổ chức cao hơn, họ cần theo sát tỷ lệ đòn bẩy của chính công ty.

Các bộ phận cần nghiên cứu độ nhạy cảm của các nhà cung cấp, phân phối làm việc với công ty trước các món nợ đang tăng nhanh của chính các khách hàng của công ty. Giám đốc quản lý rủi ro nên lập mô hình cho các  tác động ở mọi cấp độ của đòn bẩy tiêu dùng lên thu nhập và lợi nhuận của công ty. Họ cũng nên thực hiện mô phỏng hóa để thấy được thay đổi trong đòn bẩy tiêu dùng sẽ tác động như thế nào lên mô hình kinh doanh của công ty. Và họ cũng nên nghiên cứu dữ liệu khách hàng để phát hiện những khách hàng nào có nguy cơ vỡ nợ.

Nhóm chiến lược của công ty không nên bỏ sót tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng của lĩnh vực, sản phẩm và khách hàng mục tiêu. Và họ nên so sánh mức độ rủi ro của công ty so với của đối thủ cạnh tranh. Rõ ràng là trong giai đoạn suy thoái, khi đối thủ của bạn vượt trội trong lĩnh vực này, họ sẽ có một lợi thế cạnh tranh đích thực.

Xét trên phương diện chi phí, bạn nên cân nhắc về tính linh hoạt – tức là có bao nhiêu phần chi phí là cố định, bao nhiêu phần là biến đổi. Nhằm hướng tới nền kinh tế theo tăng trưởng và theo quy mô, nhiều công ty phải gánh các khoản chi phí cố định và mặc cho chính công ty mình đứng trước nguy cơ sụp đổ về nguồn cầu.

Lợi nhuận hoạt động và tỷ suất lợi nhuận thường nhạy cảm hơn nhiều so với tổng doanh số trước những thay đổi của đòn bẩy tiêu dùng. Điều này có nghĩa là trong các bước thực hiện, bạn cần tính đến và quản lý rủi ro đòn bẩy tiêu dùng nhưng không phải là trên phương diện doanh thu, chức năng bán hàng, marketing mà trên phương diện chi phí và theo một cách mà bạn quản lý được giao dịch mua, nguồn cung ứng, chi phí hoạt động và vốn hoạt động.

Cách tính Rủi ro đòn bẩy tiêu dùng trực tiếp

Với một vài phép tính đơn giản, bạn có thể đánh giá mức độ phụ thuộc của doanh số, lợi nhuận gộp và thu nhập hoạt động của công ty vào những khách hàng sử dụng tín dụng khi thanh toán. Sau đây là những thông tin về một công ty không có thực tên JarMac được sử dụng để phân tích.

Thông số tài chính về công ty JarMac:

BẢNG BÁO CÁO THU NHẬPBẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN

 

Đơn vị: triệu USD

 

Đơn vị: triệu USD

Tổng doanh thu

$100.00

Tiền mặt từ bán hàng

$50.00

Người tiêu dùng

60.00

Người tiêu dùng

20.00

Công ty

40.00

Công ty

30.00

Chi phí sản xuất

25.00

Tiền phải thu từ bán hàng

50.00

Người tiêu dùng

10.00

Người tiêu dùng

40.00

Công ty

15.00

Công ty

10.00

Lợi nhuận gộp

75.00

 

 

Người tiêu dùng

50.00

 

 

Công ty

25.00

 

 

Chi phí bán hàng, quản lý

55.00

 

 

Người tiêu dùng

35.00

 

 

Công ty

20.00

 

 

Thu nhập hoạt động

20.00

 

 

Người tiêu dùng

15.00

 

 

Công ty

5.00

 

 

 Tỉ số CLE trực tiếp:

Doanh thu chịu CLE

Lợi nhuận gộp chịu CLE

Thu nhập
hoạt động chịu CLE

Doanh thu từ người tiêu dùng

x tỷ lệ % doanh thu từ tiêu dùng phụ thuộc vào tín dụng

$60.00

Lợi nhuận gộp từ người tiêu dùng

x tỷ lệ % doanh thu từ tiêu dùng phụ thuộc vào tín dụng

$50.00

Thu nhập hoạt động từ người tiêu dùng

x tỷ lệ % doanh thu từ tiêu dùng phụ thuộc vào tín dụng

$15.00

66.67%

66.67%

66.67%

Doanh thu chịu CLE

$40.00

Lợi nhuận gộp chịu CLE

$33.33

Thu nhập hoạt động chịu CLE

$10.00

Tổng doanh thu

$100.00

Tổng lợi nhuận gộp

$75.00

Tổng thu nhập hoạt động

$20.00

Tỷ lệ % doanh thu chịu CLE

40%

Tỷ lệ % lợi nhuận gộp chịu CLE

44.4%

Tỷ lệ % thu nhập hoạt động chịu CLE

50%

Nói cách khác, 40% doanh thu của JarMac chịu rủi ro khi đòn bẩy tiêu dùng thay đổi

Do đó, 44.4% lợi nhuận của công ty sẽ gặp rủi ro

Sau cùng, 50% thu nhập hoạt động của JarMac gặp nguy hiểm

Cách tính Rủi ro đòn bẩy tiêu dùng gián tiếp

Không chỉ những khách hàng bạn trực tiếp bán hàng mới khiến bạn gặp các rủi ro về tín dụng. Nếu bạn bán hàng cho các công ty mà sau đó sẽ bán lại cho người tiêu dùng mua bằng tín dụng, rủi ro mà họ chịu cũng chính là rủi ro cho công ty bạn. Việc tính toán loại rủi ro gián tiếp này đòi hỏi phải phối hợp số liệu của các bên (doanh thu, điều khoản kinh doanh, chi phí) cùng với một ước lượng về số phần trăm doanh thu của công ty khách hàng phụ thuộc vào các giao dịch bằng tín dụng.

Chính phủ nên khuyến khích tiêu dùng như thế nào?
(Hương Mai dịch//Bài viết của John Quelch trên Harvard Business Publishing//Theo Tuanvietnam)

Chính phủ là những nhà làm thị trường nhiều ý tưởng. Lực lượng vũ trang quảng cáo chiêu mộ tình nguyện viên. Các tổ chức y tế khuyên chúng ta từ bỏ thuốc lá. Cùng với thông tin và lời lẽ thuyết phục, chính phủ từ lâu đã sử dụng mã số thuế để buộc chúng ta phải thay đổi hành vi của mình: miễn phí thuế đầu tư tiết kiệm cho hưu trí, tín dụng thuế khi mua các sản phẩm tiết kiệm nhiên liệu.

Khi lời thuyết phục và động cơ thúc đẩy giá cả không hiệu quả, chính phủ có thể đi bước tiếp theo xa hơn những nhà làm thị trường thương mại: Đưa ra quy định và lập pháp.

Cuộc suy thoái kinh tế hiện thời đã đẩy nhiều người tiêu dùng vào tình cảnh phải cắt giảm chi tiêu và tăng tiết kiệm, đặc biệt là ở những quốc gia có mạng lưới an ninh xã hội còn chưa phát triển. Trước tình trạng này, Chính phủ ở hầu hết các quốc gia đều đưa ra những chương trình vừa tăng tính hiệu lực của tín dụng ngân hàng và vừa thúc đẩy tiêu dùng.

Từ châu Á...

Các chương trình như thế có thể thấy rõ nhất ở Trung Quốc – quốc gia có tỉ lệ tiết kiệm đạt 50% và tiêu dùng nội địa được khuyến khích để bù vào phần nhu cầu đối với hàng Trung Quốc bị cắt giảm trên thị trường quốc tế.

Cùng với chi tiêu cơ sở hạ tầng tăng, chính quyền cấp thành phố và cấp tỉnh ở Trung quốc giới thiệu một loạt các chương trình phiếu thưởng và hóa đơn thanh toán nhằm kích thích tiêu dùng trong ngắn hạn.

Một số chính quyền cấp địa phương đang chi trả lương cho nhân viên của họ một phần bằng hóa đơn thanh toán chỉ có thể sử dụng cho chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Một số khác đang tập trung nhắm mục tiêu vào người nông dân và người tiêu dùng nông thôn với các phiếu thưởng để thúc đẩy doanh số bán các mặt hàng lâu bền như ôtô và vô tuyến.

Cuối cùng, Hàng Châu đã phát hành các cuốn phiếu giảm giá ở các tỉnh khác nhằm duy trì các cuộc thăm viếng của khách du lịch tới thành phố này. Những cuốn phiếu thưởng này thường chào mời giảm giá từ 20-25% và hiện đang có hiệu lực với các khách du lịch nước ngoài khi xuất trình hộ chiếu.

Tuy vậy, những chương trình này cũng tồn tại một số vấn đề. Trước hết, nếu các phiếu thưởng chỉ có được sử dụng thông qua một số cửa hàng ủy nhiệm nhất định và cho một số nhãn hiệu cụ thể, thì rõ ràng tồn tại rủi ro bị lạm dụng khi các nhà làm thị trường cố gắng lách vào danh mục hàng được ưu tiên.

Thứ hai, nhiều chương trình đòi hỏi người tiêu dùng phải thanh toán toàn bộ giá đã niêm yết sau đó mang hóa đơn tới văn phòng chính phủ để lấy lại số tiền được hạ giá. Không được giảm giá ngay tại chỗ không thể thúc đẩy người tiêu dùng túng thiếu tiền mặt đưa ra quyết định mua hàng ngay được. Thêm vào đó, quá trình lấy lại tiền giảm giá phức tạp có nghĩa là không phải mọi khoản tiền giảm giá đều sẽ được khách hàng lấy lại và những quan chức chính phủ cấp dưới có thể sẽ đút túi số tiền này để làm cho quá trình đòi tiền diễn ra nhanh hơn.

... đến châu Âu

Ở Châu Âu, chính phủ đang khuyến khích tiêu dùng thông qua các chương trình đổi xe hơi cũ. Ví dụ như ở Đức, người tiêu dùng sở hữu một chiếc xe có tuổi đời từ 9 năm trở lên (tuổi thọ trung bình của xe hơi trên đường phố là 8,5 năm) sẽ nhận được khoản tiền giảm giá là 2500EUR khi mua một chiếc xe tiết kiệm nhiên liệu mới.

Mục đích giảm thiểu khí thải xe hơi vì môi trường chính là lá chắn cho chương trình. Kết quả là doanh thu bán xe hơi ở Đức tăng 40% hàng năm sau khi chương trình được tung ra, tính tới tháng 3/2009. Kể từ đó, tỉ lệ tăng ổn định ở mức 21%.

Các chương trình tương tự được giới thiệu ở Pháp, Tây Ban Nha, và các quốc gia châu Âu khác. Mặc dù nước Anh kém nhiệt tình hơn khi có 86% số xe hơi bán ở Anh là hàng nhập khẩu, Chính phủ đang đi đầu giữ vai trò là nhà trợ giúp cho nhiều nhà sản xuất phụ tùng và buôn bán xe hơi địa phương.

Ý tưởng này giờ đây đang tràn qua bên kia bờ Đại Tây Dương và được các nhà lập pháp Hoa Kỳ xem xét. Có hơn 50% xe hơi bán tại Hoa Kỳ được sản xuất tại đây. Tuy vậy, có ba câu hỏi cần được trả lời trước khi chương trình này nhận được tín hiệu đèn xanh:

1. Liệu lựa chọn một ngành công nghiệp để chính phủ trợ cấp, không quan trọng là ngành công nghiệp đó chiếm bao nhiêu phần trăm tiêu dùng công nghiệp cả nước có hợp lý hay không? Ví dụ như trợ cấp xe hơi có làm giảm doanh số bán hàng của các trang thiết bị gia dụng mới không?

2. Liệu trợ cấp xe hơi có đơn giản sẽ mang lại doanh số bán hàng đến sớm mà lẽ ra sẽ có được trong tương lai hay không? Hay chương trình đổi xe hơi cũ sẽ khích lệ người tiêu dùng chưa bao giờ mua xe sẽ mua lần đầu tiên?

3. Việc trợ cấp có nên chỉ giới hạn với những chiếc xe hơi nhỏ, hay đối với những chiếc xe tiết kiệm nhiên liệu, hiệu quả môi trường (định nghĩa như thế nào là xe tiết kiệm nhiên liệu, hiệu quả môi trường?), hay với toàn bộ những chiếc xe do “ba đại gia” sản xuất, hay với tất cả các xe hơi được sản xuất tại Hoa Kỳ (bất kể là do GM hay Toyota sản xuất), hay với mọi loại xe hơi không phân biệt xuất xứ?

4. Căn cứ vào việc giám sát lượng khí thải thường niên từ xe hơi ở hầu hết các bang, liệu những chiếc xe hơi có tuổi đời 9 năm không bảo vệ môi trường đã đủ để làm lá chắn cho sự tham gia của cơ quan chính quyền đưa ra đề nghị khuyến khích này? Tuổi trung bình của xe hơi trên đường phố Hoa Kỳ là gần 9 năm, trong khi tuổi trung bình của xe tải nhẹ là 6,5 năm.

5. Liệu việc cắt giảm thuế thu nhập có đến được tới tay người tiêu dùng hay các nhà sản xuất và các hãng buôn bán xe hơi sẽ đơn giản cắt giảm các khoản chiết khấu của họ một cách hợp lý, kết quả là giá bán lẻ không thay đổi?

6. Bao nhiêu phần trăm đăng ký xe mới tăng là cần thiết để cân đối với các chi phí của chương trình cho người nộp thuế, ở những mức độ cắt giảm khác nhau? Goldman Sachs coi con số 15% tăng nhu cầu phương tiện đi lại hàng năm là có thể.

Bill Ford, Chủ tịch hội đồng quản trị của Ford Motor nhận định trên một bài báo gần đây của tạp chí Fortune là: “Chúng ta hối thúc các nhà lập pháp phải nhanh chóng đưa ra một đạo luật khuyến khích tiêu dùng dựa trên nền tảng thị trường. Nó tạo nên một chiến thắng rõ ràng cho người tiêu dùng, nền kinh tế và môi trường”. Bạn có đồng ý không?

Vay tín dụng tiêu dùng: Cánh cửa đã khép lại!
(Minh Thúy //Vietnam+)

Người vay tiêu dùng hiện đang khốn đốn vì lãi suất cao, phổ biến ở mức 16 - 21% và điều kiện cho vay ngặt nghèo. Một số công ty tài chính có “cửa" vay thông thoáng hơn thì lãi suất lên tới… trên 30%, và không phải khách hàng nào cũng đủ điều kiện tiếp cận vốn.

Trong khi đó, các ngân hàng lại đang tích cực rà soát các khoản vay cùng với tăng thêm các điều kiện ngặt nghèo hơn.

Chóng mặt vì lãi cao, điều kiện khó

Gia đình chị Nguyễn Mai Phương đang sửa nhà nhưng thiếu khoảng 30 triệu đồng, nên chị quyết định vay ngân hàng để trả dần bằng lương. Khi đến Sở giao dịch Vietcombank Hà Nội để hỏi vay thì chị mới hay là điều kiện của mình không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng này.

Nhân viên ngân hàng cho biết chị chỉ đáp ứng được một yêu cầu của ngân hàng là lương đã được trả qua thẻ của Vietcombank. Đã vậy, thu nhập của chị chỉ là 5 triệu đồng/tháng nên ngân hàng không thể cho chị vay vì theo quy định của ngân hàng, khách hàng phải có mức thu nhập từ 6 triệu đồng trở lên mới được vay.

Nhờ người quen mách, chị Hương lại chạy sang Ngân hàng Quốc tế (VIB) chi nhánh Long Biên. Tại đây, chị cũng nhận được câu trả lời là trường hợp của chị khó có thể vay được. Lý do đưa ra là trong một công ty phải có từ 10 người trở lên vay tiền thì nhân viên ngân hàng mới đến làm thủ tục. Hơn nữa, phải có chữ chữ ký của người quản lý trực tiếp thì ngân hàng mới cho vay.

“Mình chỉ vay có mấy chục triệu mà phải cầu cạnh đến sếp thì phiền quá, với lại, công ty chỉ có mình tôi muốn vay thôi chứ kiếm đâu ra 10 người bây giờ,” chị Phương than thở.

Một trường hợp khác là anh Lê Văn Thành ở  Long Biên - Hà Nội cũng định vay tiền ngân hàng để mua một mảnh đất. Đến tìm hiểu thông tin của Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) - một trong những nơi có lãi suất hấp dẫn, anh được nhân viên tư vấn tài chính cá nhân nói là có thể vay 1 tỷ đồng theo hình thức vay thế chấp vì đáp ứng được đủ các điều kiện như tổng thu nhập hàng tháng của hai vợ chồng là gần 30 triệu đồng. Ngoài ra, anh Thành còn được bố mẹ cho mượn sổ đỏ để thế chấp căn nhà trị giá 3,5 tỷ đồng.

Chưa kịp vui mừng vì đủ điều kiện vay tiền, anh Thành lại gặp nỗi lo mới khi được thông báo lãi suất vay lên tới 1,75%/tháng (tương đương 21%/năm) tính theo dư nợ giảm dần. Anh Thành ngao ngán: “Lãi suất cao thế này thì đi làm chỉ đủ ‘kéo cày trả nợ’ ngân hàng.”

Dẫu sau, anh Thành còn  được xếp vào hàng may mắn khi được ngân hàng xem xét đến. Nhiều người tiêu dùng khác không đáp ứng được điều kiện của ngân hàng đã phải tìm đến công ty tài chính như Prudential với lãi suất vay cao “chót vót”, đến 34%/năm.  

Nhà băng chủ trương “đóng”

Một số ngân hàng cho biết hiện không chủ trương phát triển mạnh cho vay tín chấp vì nhiều lẽ, trong đó có chuyện rủi ro cao, khó quản lý vì khách hàng hầu hết vay món nhỏ.

Anh Bách Hợp, nhân viên thu hồi nợ một công ty tài chính tại Hà Nội, cho biết nhiều khách hàng có kế hoạch vay để "quỵt" nợ. Anh kể, một nữ khách hàng ở Tập thể Nam Đồng vay 20 triệu đồng và đã hơn ba tháng chưa thanh toán gốc và lãi hàng tháng. Gọi điện thoại thì di động tắt máy, điện thoại bàn thì người nhà bảo chưa về. Công ty cho nhân viên đến tận nhà, khi gặp được thì cô ấy bảo là chưa bao giờ vay. Phải mất hàng tháng trời điều tra, cuối cùng mới biết cô này đã có chủ đích "quỵt" nợ ngay từ đầu.

Chính vì vậy, mặc dù có ngân hàng vẫn triển khai cho vay tiêu dùng, nhưng điều kiện lại ngặt nghèo hơn trước. Nhân viên tín dụng của một ngân hàng cho hay trước đây ngân hàng này chỉ yêu cầu người vay có hộ khẩu hoặc KT3, thu nhập hàng tháng từ 3 triệu đồng, có chỗ  làm ổn định một năm trở lên và có  điện thoại cố định. Thế nhưng, hiện nay các ngân hàng đều nâng mức thu nhập đủ điều kiện vay lên thành 5 triệu đồng/tháng trở lên, không được ở nhà thuê, kể cả trường hợp có nhà nhưng đã cho thuê và đi thuê lại nhà khác để ở. Nhân viên này cho biết, do hình thức cho vay tín chấp rất rủi ro và lượng khách hàng vay vốn theo dạng này ngày một nhiều nên ngân hàng phải tăng thêm điều kiện để “thanh lọc”.

"Chắc ăn" hơn, Techcombank đã ngưng cho vay tín chấp từ tháng 5/2009 và hiện chỉ còn cho vay tín chấp theo hình thức trả lương qua tài khoản của Techcombank. Nếu khách hàng có nhu cầu vay thì phải vay qua ngân hàng bằng việc thế chấp sổ đỏ, đăng ký ô tô hoặc sổ tiết kiệm.

Một số ngân hàng khác như Đông Á Bank, MHB dù không thông báo nhưng chỉ xét cho vay với rất ít trường hợp, còn lại từ chối giải ngân.

Về phía khách hàng đi vay, nhiều người cho rằng nhiều thủ tục như vậy thì họ rất khó tiếp cận vốn ngân hàng, ô tô thì không phải ai cũng có, nhà ở thì có nhưng chưa chắc đã có sổ đỏ.

Lãnh đạo Ngân hàng An Bình phân tích: “Nguyên nhân các ngân hàng siết chặt cho vay tiêu dùng là vì tính thanh khoản trên thị trường. Trong khi đó, lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm đang quá sát nhau nên gần như các ngân hàng không có lãi. Do đó, ngân hàng phải kiểm soát nguồn vốn cho vay tiêu dùng vì mức rủi ro cao.” 

Các ngân hàng khác cũng cho biết, từ cuối năm 2009, sau khi Ngân hàng Nhà nước tuyên bố cụ thể về kế hoạch thanh kiểm tra chất lượng tín dụng, cho vay hỗ trợ lãi suất, hoạt động cho vay tín chấp tiêu dùng đã “xìu” hẳn. Thay vào đó, các ngân hàng chuyển hướng sang cho vay tiêu dùng có thế chấp, chủ yếu là cho vay mua nhà, xây sửa nhà... nhưng với lãi suất thỏa thuận.

Với mặt bằng lãi suất huy động 10,5%, cộng với chi phí khuyến mãi trên dưới 1%, các ngân hàng thường áp lãi suất vay tiêu dùng với mức cao nhất 16-18% sau khi tính đủ chi phí và dư địa lợi nhuận cho mình. Cá biệt, có nơi đẩy lãi lên trên 20% khiến những người có ý định vay tiêu dùng cá nhân phải cân nhắc kỹ.

Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần lý giải sở dĩ lãi suất cho vay tiêu dùng cao là bởi có rủi ro cao. Hơn nữa, chi phí ngân hàng phải bỏ ra trong quá trình cung cấp dịch vụ này cũng cao hơn nhiều so với cho vay doanh nghiệp. “Nhân viên tín dụng vẫn phải thẩm định từng hồ sơ vay vốn. Trong khi, một dự án vay của doanh nghiệp giá trị có thể lên tới hàng chục tỷ đồng, nhưng vay tiêu dùng chỉ vài chục đến vài trăm triệu đồng,” ông này nói.

Một chuyên gia tài chính ngân hàng thi cho rằng dù mức tăng dư nợ cho vay tiêu dùng vẫn thấp hơn so với tăng trưởng tín dụng chung toàn hệ thống, nhưng nếu không có biện pháp quản lý chặt sẽ rất nguy hiểm vì tạo ra vòng luẩn quẩn. Khách hàng thế chấp nhà vay tiền mua chứng khoán rồi lại thế chấp chứng khoán vay tiền, như vậy sẽ rủi ro cho ngân hàng và cho cả nền kinh tế./.
 

( Tinkinhte.com tổng hợp )

  • Cận cảnh con tàu Vinashin: Quản lý công nợ lạ lùng
  • Châu Á bùng nổ hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
  • Sử dụng đòn bẩy tài chính trong đầu tư: Tìm kiếm lợi nhuận từ rủi ro
  • Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ: Từ A đến Z
  • Ổn định thị trường tài chính và những vấn đề đặt ra
  • Phòng, chống rửa tiền: kinh nghiệm của các nước và bài học cho Việt Nam (phân I)
  • Sự sụt giảm hàng tồn kho và những hệ lụy
  • Chiến lược chi tiêu phá cách trong bối cảnh suy thoái
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com