Tác giả: NGUYỄN LƯƠNG HẢI KHÔI
Nguồn: TuanVietNam
--------------------------
Đội ngũ hoạch định chính sách của Việt Nam gần như bỏ rơi quản lý chiến lược, sa vào quản lý từng dự án cụ thể, mà ở các dự án cũng không có sự tham vấn lẫn nhau. Đó là lí do Việt Nam bị lâm vào khủng hoảng ở khâu hoạch định chính sách, khâu mắt cốt tử.
Mô hình ra quyết định theo lề thói quan liêu chỉ có thể vận hành một nền kinh tế đẳng cấp thấp. Để xây dựng được những chính sách khả dĩ có thể đưa đất nước đi đến một đẳng cấp quốc gia cao hơn, nhất thiết phải dùng đến mô hình ra quyết định tiên tiến [1].
Lúc này, nếu chúng ta dám quyết đoán ngay ở khâu đầu tiên, khâu tái cấu trúc tiến trình xây dựng quyết sách, bắt đầu bằng việc xây dựng lực lượng think tanks, thì con tàu đất nước sẽ có cơ hội để đi đến một chân trời mới, còn nếu ngược lại, con tàu đã vướng "lời nguyền tài nguyên" ấy sẽ vĩnh viễn bị đọa đày trong vùng tâm bão, và cái "nghiệp" mà chính mình và con cháu phải trả không hề nhẹ chút nào.
Quên chiến lược, lo dự án
Xét ở mặt tổ chức quá trình ra quyết sách, nguyên nhân đầu tiên khiến Việt Nam khủng hoảng trong việc hoạch định chính sách trước hết là sự vắng bóng lực lượng tư duy chiến lược chuyên nghiệp.
1. Ở một số nước phát triển, chính trị trên đỉnh chóp lúc nào cũng náo loạn và căng thẳng, như trong trường hợp Nhật Bản, thường khoảng một năm thì thay một thủ tướng. Thế nhưng, chính sách của họ thì luôn minh bạch và khoa học. Đó là nhờ lực lượng tư duy chiến lược chuyên nghiệp và đội ngũ quản lý kỹ trị của chính phủ làm việc độc lập với các động hướng chính trị trên đỉnh chóp.
Nước ta thì chính trị trên đỉnh chóp rất ổn định, nhưng do thiếu các think tanks chuyên trách và được đãi ngộ xứng đáng, nên chất lượng chính sách không cao, thường thiếu nhất quán, dễ gây tâm lý bất an cho xã hội, đặc biệt là ở những lĩnh vực liên quan đến đông đảo nhân dân.
2. Gs. Kenichi Ohno, Giám đốc Diễn đàn Phát triển Việt Nam cũng đã nhận xét như sau về cấu trúc của tiến trình ra quyết sách ở nước ta:
"Việt Nam có quá nhiều chiến lược ngành. Mỗi chiến lược chỉ do vài người làm, trong thời gian ngắn, với chất lượng không cao. Chính phủ lựa chọn ưu tiên và quyết định kế hoạch.
Ở bất kì chính sách nào, việc xây dựng đều quá phân tán, và có quá nhiều sự chồng lấn (...) và không một cơ quan nào chịu trách nhiệm chủ đạo" [2]
3. Ở các nước phát triển, trong cấu trúc của tiến trình xây dựng chính sách, những thành tố sau là không thể thiếu:
- Lực lượng nghiên cứu chính sách chuyên nghiệp (think tanks) của chính phủ
- Các think tanks của xã hội dân sự (bao gồm các cơ sở nghiên cứu phi chính phủ và các nhóm xã hội, trong đó có các nhóm lợi ích)
- Các think tanks địa phương
Trong cấu trúc của quá trình hoạch định chính sách của nước ta hiện nay, lực lượng tư duy chiến lược quá ít. Theo tiêu chí và đánh giá của J.G. McGann, chủ nhiệm trương trình nghiên cứu "Các think tanks và những xã hội công dân", ĐH Pennsylvania, Mỹ, nước ta hiện nay chỉ có 9 think tanks [3].
Mặt khác, lực lượng tư duy chiến lược của Việt Nam không chỉ quá ít, mà còn có một vị trí mờ nhạt trong quá trình hoạch định chính sách, nhất là những chính sách lớn. Một số người trong số họ thường lên tiếng phản biện chính sách, nhưng trong tình trạng "sự đã rồi".
Bản thân các nhà lãnh đạo ở hàng chính khách của đất nước dường như đang đảm nhiệm rất nhiều chức năng một lúc: vừa tư duy chiến lược, vừa tổ chức hành động để thực thi chiến lược đó, vừa phải đảm nhiệm một số công việc hành chính then chốt của người quản lý.
Còn ở hàng chuyên gia, về mặt đãi ngộ, các chuyên gia tại các Bộ, ngành trung ương đang được đối đãi theo cách này:
"Một thứ trưởng xin giấu tên kể rằng, ông chỉ được cấp 7 triệu đồng để soạn thảo và lấy ý kiến cho một thông tư, 15 triệu đồng cho một nghị định (...). Trong khi đó, một số chuyên viên chính có trình độ cao có thể giúp ông soạn thảo những văn bản quan trọng đó lại hưởng lương tháng vỏn vẹn có 2 triệu đồng/tháng, khó mà nuôi thân chứ đừng nói đến gia đình. Một số người đã có ý định ra đi. Để giữ lại những nhân viên này, ông thứ trưởng đã phải dựa vào mối quan hệ riêng để xin việc cho vợ của những chuyên viên đó. Ông nói: "Cho nên đừng trách những chính sách của chúng tôi, nếu có gì chưa đúng" [4]
4. Không chỉ về mặt đãi ngộ mà cả về mặt tính chuyên nghiệp của lực lượng hoạch định quyết sách cũng có bất cập.
Một mặt, họ cũng phải đảm nhiệm chức năng của "những con người tư duy": tư duy chiến lược, soạn thảo chính sách, nghiên cứu khoa học, tham mưu cho lãnh đạo, nhưng mặt khác, vẫn là một khâu mắt trong chuỗi hành chính, họ phải thực hiện chức năng vận hành các thủ tục trong công việc bình thường của các Bộ.
Đó là chưa kể đến mức đãi ngộ què quặt như trên, họ không thể không "làm thêm bên ngoài" để hoàn thành trách nhiệm với gia đình. Họ gần như bỏ rơi quản lý chiến lược, sa vào quản lý từng dự án cụ thể.
Khi viết các dự án chiến lược, họ gần như chỉ biết đến Bộ của mình mà không tham vấn ý kiến của các nhóm xã hội có liên quan (và mặt khác, các nhóm xã hội này cũng đang gặp vấn đề cần được cấu trúc lại), không tham vấn ý kiến của Bộ, ngành khác, không tham vấn ý kiến từ các trường đại học, viện nghiên cứu.
Đó là lí do Việt Nam bị lâm vào khủng hoảng ở khâu hoạch định chính sách, khâu mắt cốt tử. Ở hầu hết những chiến lược quan trọng của Việt Nam, như chiến lược biển, chiến lược công nghiệp, chiến lược giáo dục..., chúng ta có thể thấy, Việt Nam chưa thoát khỏi tư duy kế hoạch, tư duy trên cơ sở những chỉ tiêu thay vì những mục tiêu, loại tư duy đã khiến chủ nghĩa xã hội thất bại thế kỉ trước.
Chưa biết làm chủ sự thất bại
Để thấy hết bản chất và hậu quả của tất cả những điều trên, không sử dụng lực lượng nghiên cứu chiến lược chuyên nghiệp và không xây dựng lực lượng này, chỉ cần nhìn vào một vài "mẫu nghiên cứu" điển hình.
Dự án đầu tiên được công khai, Đề án 112, "Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2005", là một trong những ví dụ tiêu biểu. Dự án này làm Việt Nam tiêu tốn 1.159,6 tỷ đồng, nhưng kết quả duy nhất thu được là những người quản lý đề án phải vào tù.
Không có một think tank nào đảm nhiệm khâu đầu tiên, khâu nghiên cứu sách lược và vạch một lộ trình hành động cụ thể dựa trên sách lược ấy, cho nên, như nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Trọng - nguyên Chánh văn phòng Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT, "những vấn đề của hệ thống lớn không được phân tích", "triển khai một việc lớn mà không chuẩn bị kỹ về mọi mặt" [5].
Hệ quả là, người quản lý Đề án 112, đương thời là Chánh Văn phòng Chính phủ, xài tiền quốc gia không giống cách của một nước văn minh, mà giống kiểu xài tiền của những ông hoàng Ả Rập trong truyện "Nghìn lẻ một đêm" [6], còn cách tổ chức tiến trình ra quyết định của họ thì hơi giống... một hội kín [7].
Tuy vậy, thất bại có tính chiến lược nằm ở khâu "con người" của Dự án. Tung ra một nguồn tài chính khổng lồ để trang bị các phương tiện điện tử cho bộ máy hành chính của nhà nước, trong khi hệ thống con người vận hành hệ thống thiết bị đó thì vẫn như cũ, chỉ quen với mô hình vận hành cũ, thì hệ thống thiết bị "hiện đại" cũng vô dụng. Khi một vị tướng trao những chiến hạm khổng lồ cho một đội quân chưa từng biết qua, thì chiến hạm càng mạnh bao nhiêu, thất bại càng nặng nề bấy nhiêu.
Thất bại là mẹ thành công, nếu con người đủ nguồn lực trí tuệ để làm chủ sự thất bại ấy. Ngược lại, thất bại chỉ có thể là mẹ của thất bại. Năm 1953, sau thất bại của chiến dịch Nà Sản, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tập hợp những sĩ quan giỏi nhất của mình, lập một nhóm nghiên cứu về nghệ thuật tiêu diệt tập đoàn cứ điểm. Những phát kiến tri thức của nhóm này là một trong những nền tảng trí tuệ giúp Đại tướng, trong chiến dịch Điện Biên Phủ sau đó, vượt lên trên lời khuyên "đánh nhanh thắng nhanh" bằng chiến thuật "biển người" có tính duy ý chí của các cố vấn Trung Quốc, và đưa ra những quyết định sáng suốt, tạo nên chiến thắng lững lẫy của dân tộc.
Đến đầu thế kỷ XXI, sau thất bại của Dự án 112, không một think tank nào được thành lập để nghiên cứu thất bại nói trên để rút kinh nghiệm. Từ đó đến nay, Việt Nam tiếp tục thực hiện hàng loạt kế hoạch khổng lồ mà không có nghiên cứu chiến lược đi kèm: tập đoàn kinh tế, mở rộng Hà Nội, thành phố ven Sông Hồng, đường sắt cao tốc...
Đó là chưa kể những "chiến lược" mỗi tỉnh một nhà máy xi măng, một nhà máy đường, một cảng biển, một trường đại học, và Gs. Nguyễn Lân Dũng còn cho biết là trong ngành công nghệ sinh học "chúng ta đầu tư cho mỗi tỉnh một phòng nuôi cấy mô rất tốn kém mà nhiều nơi chẳng biết dùng làm gì" [8]
Đến giữa năm 2010, do sự đổ vỡ của tập đoàn Vinashin, các chuyên gia của Việt Nam tiến hành phân tích mô hình "tập đoàn kinh tế nhà nước" một cách toàn diện ở tầm chiến lược. Câu hỏi đặt ra là, trước khi ra quyết định, tại sao Chính phủ không tìm kiếm những những phân tích ấy?
Tự chủ trí tuệ
Một khi không xây dựng và không sử dụng lực lượng tư duy chiến lược chuyên nghiệp, thì hệ quả tất yếu là, quá trình xây dựng chính sách bị lệ thuộc vào ngoại bang.
Ví dụ tiêu biểu là chiến lược phát triển giao thông vận tải của nước ta. Trong suốt hơn 10 năm qua, người xây dựng chiến lược giao thông toàn quốc cho Việt Nam là JICA của Nhật, từ Vitranss 1 đến Vitranss 2. Và Việt Nam đề xuất Nhật cho vay ODA để xây dựng từng tiểu mục trong cái tổng thể chung ấy.
Như vậy, phía Nhật làm chủ từ A đến Z: không chỉ vốn vay, tiền lãi, kỹ thuật, thị phần xây dựng, mà cả tri thức, hiểu biết về thực tiễn của chính chúng ta, từ kế hoạch tổng thể chung đến từng dự án cụ thể.
Việt Nam gần như chẳng phải làm gì. Chỉ cần ký vào tờ giấy vay nợ và cầu đường cứ thế mọc lên.
Đây là một "mẫu nghiên cứu" điển hình để Việt Nam nhận thức chính xác thực trạng của chính mình. Không ai có thể phủ nhận đóng góp của tư vấn nước ngoài đối với sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp phía tư vấn nước ngoài nghiên cứu một cách khoa học, đạt đến những kết quả nghiên cứu công tâm, thực sự vì lợi ích của "dân bản xứ", thì điều này vẫn không thể chấp nhận được. Bởi lẽ, điều này không gì khác hơn là sự cô lập và nô lệ về mặt trí tuệ của chúng ta.
Không một dân tộc chậm tiến nào có thể hiện đại hóa thành công bằng "cái đầu" của kẻ khác mà không có "bộ não" của riêng mình.
Tự chủ trong trí tuệ là cơ sở để tự chủ trong kinh tế, và tự chủ trong kinh tế là nền tảng của độc lập chính trị, cho nên sự nô lệ trong trí tuệ phải được chấm dứt.
--------------------------------
[1] Tái cấu trúc tiến trình xây dựng quyết sách
http://www.tuanvietnam.net/2010-07-07-tai-cau-truc-tien-trinh-xay-dung-quyet-sach
[2] Xin xem: "VN có quy trình làm chính sách có một không hai",
http://tuanvietnam.net/vn-co-quy-trinh-lam-chinh-sach-co-mot-khong-hai
[3] Xem: James G. McGann, THE GLOBAL "GO-TO THINK TANKS", The Leading Public Policy Research Organizations In The World, Think Tanks and Civil Societies Program, University of Pennsylvania, 2008, p. 15
[4] Tư Giang, Bất ổn vĩ mô và cơ hội tái cơ cấu http://www.sgtt.com.vn/detail23.aspx?newsid=64770&fld=HTMG/2010/0325/64770
[5] Xem: Đề án 112 thất bại: Lãng phí hàng trăm tỉ đồng
http://vietnamnet.vn/tinnoibat/2006/04/560052/
[6] Xem: Những chiêu 'xài tiền như nước' của Đề án 112 http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=100094&ChannelID=3
[7] Xem: "Vua" thao túng trong Đề án 112
http://www.laodong.com.vn/Home/Vua-thao-tung-trong-de-an-112/20079/55748.laodong
[8] 600 triệu USD có vực dậy nổi ngành công nghiệp vi sinh vật học?
http://sgtt.vn/Goc-nhin/113097/600-trieu-USD-co-vuc-day-noi-nganh-cong-nghiep-vi-sinh-vat-hoc.html
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com