Sức mạnh của một nhãn hiệu tỷ lệ nghịch với quy mô của nó
Hãy nghĩ về nhãn hiệu Chevrolet. Điều gì ngay lập tức xuất hiện trong đầu anh? Có vướng mắc gì ư? Dễ hiểu thôi. Đó là vì Chevrolet vừa có thể là xe con vừa có thể là xe tải, vừa có thể to vừa có thể nhỏ, có thể rẻ hay đắt.
Cái nào sẽ xuất hiện đầu tiên đây? Khi một cái tên được dán lên tất cả mọi thứ, cái tên đó sẽ dần mất đi sức mạnh.
Chevrolet đã từng là một nhãn hiệu ô tô bán chạy nhất nước Mỹ. Đã từng thôi. Ngày nay Ford mới là nhãn hiệu số một. Hãy nghĩ về Ford. Rắc rối cũng y như vậy. Ford và Chevrolet một khi đã trở thành những nhãn hiệu rất mạnh thì sẽ dần suy yếu. Những người dùng xe Ford sẽ nói về những chiếc Tauruses, Broncos, những chiếc Explorer, hay những chiếc Escorts của họ? Những người dùng xe Chevrolet thì nói về loại xe nào? Trừ chiếc Covette, trong các dòng xe của Chevrolet chẳng còn nhãn hiệu nào mạnh nữa. Và đó là rắc rối đối với hình ảnh nhãn hiệu (brand image) của Chevrolet. Chevrolet có 10 kiểu xe con khác nhau. Ford có 8. Đó là một trong những nguyên nhân tại sao Ford bán được nhiều xe hơn Chevrolet. Sức mạnh của một nhãn hiệu tỷ lệ nghịch với quy mô của nó. Tại sao Chevrolet lại đưa ra thị trường tất cả những kiểu xe này? Vì họ muốn bán được nhiều xe hơn. Và trong ngắn hạn thì họ làm được như vậy. Nhưng về lâu dài, việc này sẽ phá hoại hình ảnh nhãn hiệu của Chevrolet trong tâm thức người tiêu dùng. Ngắn hạn không đi cùng dài hạn. Có nên mở rộng dòng sản phẩm chỉ để nhằm tăng doanh số trong thời gian trước mắt hay không? Hay nên duy trì một dòng sản phẩm hẹp để xây dựng nhãn hiệu trong tâm thức khách hàng và tăng doanh số trong tương lai? Có nên xây dựng một nhãn hiệu trong hôm nay để thúc đẩy việc kinh doanh vào ngày mai không? Hay nên mở rộng nhãn hiệu trong hôm nay chỉ để bán được sản phẩm ngay ngày hôm nay và chứng kiến sự suy tàn của nhãn hiệu đó ngày mai? Hầu hết các công ty đặt trọng tâm vào kết quả ngắn hạn. Việc mở rộng dòng sản phẩm (line extension), xây dựng hàng loạt cây nhãn hiệu (megabranding), quy định mức giá khác nhau và một loạt những kỹ thuật marketing phức tạp khác đang được sử dụng để khai thác tối đa nhãn hiệu chứ không phải xây dựng nhãn hiệu. Dù việc khai thác nhãn hiệu dễ dàng đem lại thu nhập trong ngắn hạn hơn, về lâu dài việc này sẽ làm xói mòn nhãn hiệu cho đến khi nó không còn đại diện cho cái gì nữa. Điều Chevrolet đã làm với ô tô cũng là điều American Express đang làm với thẻ tín dụng. AmEx đã từng là thẻ tín dụng hàng đầu và uy tín nhất. Hội viên đăng ký nhận được rất nhiều đặc quyền. Sau đó American Express bắt đầu mở rộng dòng sản phẩm với các loại thẻ và dịch vụ mới nhằm tăng thị phần. Mục tiêu của AmEx là trở thành một siêu thị tài chính. Năm 1988, American Express đã đưa ra nhiều loại thẻ và nắm 27% thị trường. Sau đó công ty này bắt đầu giới thiệu liên tiếp một loạt các loại thẻ mới như: Senior, Student, Membership Miles, Optima Rewards Plus Gold, Delta SkyMiles Optima, Optima True Grace, Optima Golf, Purchasing, và Corporate Executive, đấy là mới kể sơ sơ. Theo Tổng Giám đốc Điều hành (CEO) của công ty thì mục tiêu của AmEx là phát hành 12 đến 15 loại thẻ mới một năm. Hiện giờ American Express có được bao nhiêu thị phần? Chỉ 18% mà thôi. Levi Strauss cũng đã làm tương tự với sản phẩm quần bò (jeans) của mình. Để tìm kiếm một thị trường lớn hơn, Levi tung ra một loạt mẫu quần với các kiểu dáng khác nhau: nhiều túi, có khóa kéo, ống rộng... Tại mỗi điểm bán, có đến 27 kiểu dáng quần jeans Levi’s khác nhau. Và nếu khách không tìm được cái nào vừa ý, Levi’s thậm chí còn nhận may đo theo thông số của khách. Vậy mà trong 7 năm qua, thị phần công ty này có được trên thị trường quần jeans đã giảm từ 31 xuống còn có 19%! Procter & Gamble cũng đã làm tương tự với thuốc đánh răng. Khi chúng tôi làm tư vấn nhãn hiệu cho Crest, giám đốc marketing của họ hỏi chúng tôi: “Crest có 38 nhãn hiệu con2. Anh nghĩ thế là nhiều hay ít?” “Miệng anh có bao nhiêu cái răng”, chúng tôi hỏi anh ta. “32” “Không loại thuốc đánh răng nào nên có nhiều nhãn hiệu con hơn số răng có trong miệng”. Khi chúng tôi trả lời câu hỏi trên, Crest đang có 36% thị phần. Hiện nay nhãn hiệu này có hơn 50 nhãn hiệu con, nhưng thị phần của nó đã giảm xuống chỉ còn 25%. Và chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Crest mất vị trí hàng đầu vào tay Colgate. Nhiều công ty cố tìm cách lý giải việc mở rộng dòng sản phẩm bằng cách đưa ra các khái niệm nhãn hiệu chủ đạo (masterbrand), siêu nhãn hiệu (superbrand) hay megabrand (nhãn hiệu gốc).
• Chevrolet là nhãn hiệu gốc còn Camaro, Caprice, Cavalier, Corsica‐Beretta, Corvette, Lumina, Malibu, Metro, Monte Carlo, và Prizm là các nhãn hiệu nhánh.
• Pontiac là nhãn hiệu gốc còn Bonneville, Firebird, Grand Am, Grand Prix và Sunfire là các nhãn hiệu nhánh.
• Buick là nhãn hiệu gốc còn Century, LeSabre, Park Avenue, và Regal là các nhãn hiệu nhánh. Nhưng người khác lại không nghĩ như vậy. Trong tâm thức, hầu hết mọi người đều cố tự gắn một nhãn hiệu nào đó cho sản phẩm. Và cách gắn những nhãn hiệu đó của mọi người cũng không giống nhau. Người ta có xu hướng sử dụng cái tên nào sát với bản chất của sản phẩm đó nhất. Đó có thể là tên một nhãn hiệu gốc (megabrand). Có thể là tên mẫu sản phẩm (model). Đó cũng có thể là một cái tên lóng (nickname). Người chủ một chiếc Lumina sẽ nói: “Tôi đi xe Chevrolet”. Người chủ một chiếc Corvette sẽ nói: “Tôi lái một con Vette kia”. Có hàng nghìn những cặp tên trong tâm thức người tiêu dùng. Tương tự những chiếc bập bênh bao giờ cũng có bên cao bên thấp, bất cứ cặp tên nào cũng vậy, bao giờ cũng chỉ có một cái tên ở bên cao hơn và được chọn. Với cặp Chevrolet/Lumina, cái tên Chevrolet được chọn, vì thế người chủ xe nói: “Tôi lái chiếc Chevrolet”. Trong cặp Chevrolet/Corvette, cái tên Corvette được chọn, vì vậy người chủ xe Corvette nói: “Tôi lái một chiếc Vette”. Vậy mà các nhà tiếp thị toàn thực hiện các chương trình xây dựng nhãn hiệu mâu thuẫn với cách thức người tiêu dùng nhận biết nhãn hiệu đó! Khách hàng muốn các nhãn hiệu có phạm vi hẹp và có thể phân biệt dễ dàng chỉ nhờ một từ duy nhất, càng ngắn càng tốt. Nhưng các nhà tiếp thị, trong nỗ lực nhằm làm sản phẩm của mình khác biệt với các sản phẩm tương tự trên thị trường, đã đưa ra những nhãn hiệu sôi nổi đến mức buồn cười.
• Dầu bôi rám nắng liều lượng vaseline cao Vaseline Intensive Care
• Nước rửa mặt chống trứng cá không có dầu Neutrogena
• Khử mùi dạng gen trong suốt Gillette ClearGel
• Sữa rửa mặt tạo bọt không dầu Johnson’s Clean & Clean
• Thuốc cho người lớn không có chất aspirin St. Joseph
• Tã giấy trẻ em siêu khô Kleenex Super Dry
• Bột giặt Fruit of the Loom • Máy ướp lạnh rượu vang Harley‐Davidson
• Chất tẩy rửa với toàn bộ thành phần thiên nhiên Heinz Các nhà tiếp thị thường nhầm lẫn sức mạnh của nhãn hiệu với doanh số bán ra từ nhãn hiệu đó.
Nhưng doanh số không chỉ là hàm số của sức mạnh của một nhãn hiệu. Doanh số còn là hàm số thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém trong khả năng cạnh tranh của một nhãn hiệu. Nếu đối thủ cạnh tranh yếu kém hoặc không tồn tại, anh vẫn có thể tăng doanh số bằng cách mở rộng nhãn hiệu đó ra các phân khúc thị trường khác, tức là làm nhãn hiệu của mình yếu đi. Từ đó anh sẽ ngay lập tức rút ra kết luận rằng việc mở rộng ngành hàng đem lại hiệu quả. Nhưng làm như vậy sẽ chỉ chứng tỏ được sự yếu kém của đối thủ cạnh tranh mà thôi. Coca Cola chẳng có gì để mất khi họ đưa ra Diet Coke (Coca Cola dành cho người ăn kiêng), vì đối thủ Pepsi Cola cũng có một sản phẩm mở rộng có tên là Diet Pepsi (Pepsi cho người ăn kiêng). Mặc dù việc mở rộng dòng sản phẩm có thể gia tăng doanh số trong ngắn hạn, việc này lại đi ngược lại khái niệm xây dựng nhãn hiệu. Nếu muốn xây dựng một nhãn hiệu mạnh trong tâm thức người tiêu dùng, anh cần thu hẹp nhãn hiệu của mình, chứ đừng mở rộng nó. Về lâu dài, việc mở rộng nhãn hiệu sẽ giảm sức mạnh của anh và làm suy yếu hình ảnh của anh.
(Theo 22 Quy Luật Vàng Trong Xây Dựng Nhãn Hiệu // AL RIES & LAURA RIES )
Bài thuộc chuyên đề: Tìm hiểu nghệ thuật quảng cáo
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com