Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Tập đoàn và con đường phía trước ( 2)

Thủy Chung - Nữ 38 tuổi - Cán bộ quản lý:

Được biết trong năm 2009, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã tổ chức giám sát hoạt động của tập đoàn, ông Kiên có thể cho biết việc giám sát được thực hiện thế nào và kết quả chủ yếu?

Ông Nguyễn Đức Kiên:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã quan tâm đến hoạt động của Ủy ban Kinh tế. Theo Luật Tổ chức Quốc hội thì giám sát là một hoạt động quan trọng của Quốc hội và các cơ quan giúp việc cho Quốc hội.

Giám sát trong năm 2009 mà bạn hỏi là giám sát tối cao của Quốc hội nên cũng được quy định ngay trong Luật. Tại kỳ họp thứ tư, tháng 11/2008 Quốc hội có nghị quyết về việc thành lập đoàn giám sát. Tháng 1/2009, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định thành lập đoàn giám sát và mời các cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia, trong đó có Ủy ban Kinh tế.

Trong tháng 2 và 3, đoàn giám sát đã họp, xây dựng đề cương giám sát gửi cho các bộ ngành địa phương, các tập đoàn. Và quý 2 đã giám sát trực tiếp tại hai thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và các tập đoàn, tổng công ty trọng điểm. Tháng 7 và 8 đoàn giám sát nghiên cứu kết quả báo cáo và làm việc với các bộ ngành liên quan để làm rõ những phát hiện trong quá trình giám sát...

Kết quả giám sát đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng từ mấy ngày hôm nay. Nhìn chung kết quả giám sát  đã đưa ra 6 kiến nghị là hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật; phân định rõ nhiệm vụ của chủ sở hữu; tách bạch nhiệm vụ quản lý Nhà nước và chức năng đại diện vốn; chấn chỉnh và củng cố các tập đoàn gặp khó khăn; xây dựng hệ thống kiểm tra việc sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Và cuối cùng là hoàn thiện về tổ chức và mô hình của tập đoàn.

Phạm Hưng Hùng - Nam 40 tuổi - Nghiên cứu sinh Đại học Birmingham:

Xin hỏi ông Vũ Đức Giang: Câu 1: Dệt may hiện là lĩnh vực đóng góp lớn nhất cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (chỉ sau dầu thô và có thể vượt dầu thô trong năm nay). Cũng như da giày, dệt may là ngành thâm dụng lao động mà các nước mới tiến hành công nghiệp hóa đều đẩy mạnh phát triển do có lợi thế về giá nhân công rẻ. Tuy nhiên, trước lộ trình tăng lương cơ bản liên tiếp hiện nay, lợi thế đó dần mất đi, và thực tế việc thiếu lao động ở các nhà máy đã và đang diễn ra ngày một nhiều hơn. Xin ông cho biết Vinatex nói riêng và ngành dệt may nói chung đã có những giải pháp gì để đối phó với vấn đề trên?

Câu 2: Xin ông vui lòng cho biết vai trò của Chính phủ và của Hiệp hội Dệt may trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, cũng như một số biện pháp hỗ trợ mà Chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp dệt may trong điều kiện đã gia nhập WTO?

Ông Vũ Đức Giang:

Trước hết xin được cám ơn câu hỏi của bạn,

Từ năm 2009, tôi xin khẳng định ngành dệt may sẽ đứng đầu cả nước trong kim ngạch xuất khẩu, riêng năm nay ước đạt trên 9 tỷ USD.

Tôi khẳng định trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh, chúng tôi không đặt mục tiêu cạnh tranh bằng giá rẻ mà chúng tôi đặt lợi thế cạnh tranh bằng chất lượng, bằng giá, bằng thời gian giao hàng và tuân thủ các chuẩn mực mà các nước nhập khẩu đặt ra theo chuẩn mực của WTO.

Lộ trình tăng lương không ảnh hưởng nhiều đến phát triển của ngành bởi vì chúng tôi tập trung phát triển công nghệ, thiết bị hiện đại và mô hình quản lý Lean, nó giúp tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh doanh.

Như tôi đã trả lời ở trên, mặt bằng thu nhập của người lao động trong tập đoàn cao hơn mặt bằng chung của lao động trong toàn ngành dệt may. Điều đấy cho thấy chúng tôi luôn chủ động nâng cao chất lượng nguồn lực lao động.

Câu hỏi thứ hai tôi xin được trả lời như sau:

Hiệp hội Dệt may Việt Nam và Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã thực hiện định hướng chỉ đạo chiến lược của Chính phủ và Bộ Công Thương, hàng năm chúng tôi tổ chức các đoàn xúc tiến thị trường xuất khẩu, trong đó chúng tôi đặc biệt chú trọng nhiều thị trường lớn như thị trường Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và các châu Á, các nước Trung Đông, châu Phi và các nước Đông Âu cũ.

Điều này đã khẳng định trong bối cảnh các thị trường truyền thống có giảm đi nhưng chúng tôi đã tập trung các thị trường mới nên vẫn hoàn thành mục tiêu đặt ra. Trong 10 tháng, toàn ngành đã xuất khẩu được 7,5 tỷ USD và năm nay tôi khẳng định sẽ đạt hơn 9 tỷ USD.

Chính phủ đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp về chi phí đào đạt nguồn lực cho ngành dệt may Việt Nam. Bên cạnh đó, thông qua gói kích cầu hỗ trợ lãi suất, chính sách đã tác động tích cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn.

Chính phủ cũng đã chỉ đạo các bộ ngành, cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nước và tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước theo các điều khoản của WTO.

Nguyễn Ý Hương - Nữ 28 tuổi - Nhà đầu tư:

Xin chào lãnh đạo Tập đoàn Bảo Việt. Bảo Việt là tập đoàn nhà nước đầu tiên cổ phần hóa và có đối tác chiến lược nước ngoài. Xin cho biết sự khác biệt này tạo thuận lợi hay khó khăn, áp lực gì trong quá trình hoạt động? Câu hỏi thứ hai, xin cho biết dự kiến kết quả kinh doanh năm nay của Bảo Việt như thế nào? Xin cảm ơn.

Ông Phạm Khắc Dũng:

Cám ơn sự quan tâm của bạn về Tập đoàn Bảo Việt.

Thực hiện quyết định số 310/2005/QĐ-TTg ngày 28/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án cổ phần hóa Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam và thí điểm thành lập Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt, ngày 26/12/2005, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 6504/QĐ-BTC về việc cổ phần hóa Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam và thí điểm thành lập Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt.

Sau khi thực hiện bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng ngày 31/05/2007, căn cứ vào kết quả bán đấu giá và lựa chọn cổ đông chiến lược sau cổ phần hóa, Bảo Việt đã lựa chọn được đối tác chiến lược HSBC Insurance đáp ứng đủ các tiêu chí: có lĩnh vực hoạt động tương đồng với Bảo Việt, có năng lực tài chính, có thương hiệu mạnh và đã đầu tư thành công trong khu vực.

Nên khi đầu tư vào Bảo Việt, HSBC sẽ giúp cho Bảo Việt trong việc tái cơ cấu lại doanh nghiệp, mở rộng cung cấp dịch vụ bảo hiểm, đổi mới quản trị doanh nghiệp theo hướng: tiếp cận dần với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong quản trị doanh nghiệp, thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ trong nhiều lĩnh vực gồm phát triển sản phẩm, quản lý đại lý, phát triển kênh phân phối, công nghệ tin học nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho cổ đông và cho doanh nghiệp.

Nguyen Huu Nguyen - Nam 30 tuổi - Kỹ sư:

Chính phủ đánh giá thế nào về tính hiệu quả của các tập đoàn kinh tế sau gần 5 năm thí điểm? Đâu là những kinh nghiệm cần rút ra? Đâu là những giá trị cần phát huy? Xin cảm ơn.

Ông Phạm Tuấn Anh:

Chào bạn, sau gần 5 năm thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, bước đầu có thể rút ra những kết quả cơ bản như sau:

- Tập trung nguồn lực để hình thành được những tổ hợp doanh nghiệp quy mô lớn trong một số ngành, lĩnh vực then chốt cần phát triển, góp phần dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới công nghệ, năng suất lao động và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.

- Giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân; từng bước ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế. Góp phần bảo đảm an sinh xã hội.

- Đổi mới quản trị trong tập đoàn thông qua việc chuyển đổi tổng công ty nhà nước trước đây sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, theo đó chuyển quan hệ trong tập đoàn từ cơ chế hành chính, giao vốn là chủ yếu sang liên kết bằng lợi ích kinh tế, công ty mẹ quan hệ với công ty con với địa vị là nhà đầu tư thay cho địa vị là doanh nghiệp cấp trên.

- Mở rộng đầu tư phát triển với sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế khác thông qua việc cổ phần hóa đa số các doanh nghiệp thành viên và tập đoàn tham gia đầu tư góp vốn với các thành phần kinh tế khác hình thành thêm nhiều công ty thành viên mới để thông qua đó phát triển kinh doanh đa ngành, đồng thời thu hút thêm vốn, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực khác của các thành phần kinh tế để đầu tư, phát triển và đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại, phù hợp với cơ chế thị trường.

- Qua thí điểm, các tập đoàn cũng rút ra những kinh nghiệm để có cơ sở thực tiễn đánh giá về những vấn đề trước đây còn có nhiều ý kiến khác nhau. Ví dụ như: việc công ty mẹ nên thực hiện đồng thời cả hai chức năng sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính hay chỉ thực hiện chức năng đầu tư tài chính, Tập đoàn Dầu khí qua thực tế thí điểm đã nhận thấy trong điều kiện thực tế hiện nay, công ty mẹ tập đoàn nên thực hiện đồng thời cả hai chức năng là sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính vì nếu không trực tiếp sán xuất kinh doanh  công ty mẹ sẽ mất đi vai trò chi phối các công ty thành viên trong tập đoàn về công nghệ, chiên lược sản xuất.

Một vấn đề nữa là, trong tập đoàn, công ty mẹ có nên góp vốn với công ty con hoặc công ty liên kết để hình thành doanh nghiệp mới hay không? Thực tiễn thí điểm cũng cho thấy việc này làm cho cơ cấu sở hữu trong tập đoàn trở nên phức tạp, các chủ nợ và cổ đông rất khó để giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư.  Do đó, trong điều kiện hiện nay, chưa nên cho phép đầu tư theo hình thức này.

- Để tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế phát triển, cần có hành lang pháp lý phù hợp, trong đó có những quy định nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, các tập đoàn kinh tế Nhà nước đang nắm giữ các nguồn lực quan trọng của quốc gia , sự phát triển của các tập đoàn kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, bên cạnh việc đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tập đoàn kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc quản lý, giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế cần được coi trọng.

- Thực tiễn chỉ đạo việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước trong thời gian qua cũng góp phần giúp cho Chính phủ hoàn thiện quy định pháp luật về mô hình này. Ngày 5/11/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 101/2009/NĐ-CP về việc thí điểm thành lập, tổ chức hoạt động và quản lý đối với tập đoàn kinh tế nhà nước.

Thúy Liên - Nữ 26 tuổi - Nhân viên văn phòng:

Sự hấp dẫn của lợi nhuận chính là yếu tố hút các tập đoàn. Vây nếu trong một lĩnh vực không còn sức hấp dẫn của lợi nhuận mà lại thuộc ngành nghề chính của mình thì yếu tố gì sẽ ràng buộc các tập đoàn?

Ông Nguyễn Ngọc Sự:

Tập đoàn kinh tế là một trong những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, tập đoàn kinh tế còn có vai trò và sứ mệnh to lớn là đảm bảo nền kinh tế vĩ mô. Thông thường lĩnh vực kinh doanh chính không đem lại lợi  nhuận thì các doanh nghiệp nói chung và tập đoàn kinh tế nói riêng phải xem xét lại hoạt động kinh doanh chính đó, thậm chí phải thay đổi ngành nghề kinh doanh chính.

Tuy nhiên tập đoàn kinh tế còn có vai trò thứ hai là công cụ ổn định kinh tế vĩ mô, do đó cũng phải xem xét đến khía cạnh mở rộng các hoạt động khác mà vẫn phải duy trì các hoạt động kinh doanh chính đó vì mục tiêu lớn hơn là ổn định nền kinh tế vĩ mô. Tức là tập đoàn kinh tế phải dám hi sinh mục tiêu riêng vì mục đích chung.

Bùi Thanh Lam - Nam 33 tuổi - Luật sư:

Theo Dự thảo về Nghị định Tập đoàn kinh tế Nhà nước và hiện tại có một số tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập thì đều ghi nhận là có tư cách pháp nhân. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp 2005, Nghị định số 139 quy định tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân. Qua nghiên cứu mô hình tập đoàn kinh tế của một số nước thì tôi tán đồng quan điểm này. Quan điểm của các ông về vấn đề này như thế nào? Xin cảm ơn các ông!

Ông Phạm Tuấn Anh:

Tập đoàn kinh tế là một nhóm các công ty có quy mô lớn, liên kết dưới hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp có gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.

Tổ hợp doanh nghiệp này không đủ các điều kiện theo quy định của Luật Dân sự để trở thành tổ chức có tư cách pháp nhân (có vốn, tài sản độc lập; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; được thành lập hoặc cho phép thành lập hoặc công nhận thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền; nhân danh mình một cách độc lập trong các quan hệ kinh tế, dân sự), chỉ có công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên có tư cách pháp nhân, có vốn và tài sản riêng.

Thủy Chung - Nữ 38 tuổi - Cán bộ quản lý:

Tại bài trả lời phỏng vấn trên VnEconomy gần đây, ông Kiên có đưa ra vấn đề hạn chế những khoản vay không cần thiết của Tập đoàn Vinashin như một trong những hành động bắt đầu tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy nhiên, đang có nhiều ý kiến về cách xử lý vấn đề tại Vinashin, ví dụ việc cho phép Vinashin thoái vốn tại Tập đoàn Bảo Việt. Thưa ông, nếu chúng ta tái cấu trúc kinh tế theo cách xử lý hậu quả (và nhiều ý kiến cho rằng phi kinh tế) như vậy, liệu rằng có phù hợp quy luật và công bằng với các thành phần kinh tế khác hay không? Thay vì chúng ta chịu nhìn nhận và xử lý tận gốc vấn đề là Chính phủ thiếu cơ chế chính sách tài chính phù hợp để quản lý các tập đoàn kinh tế, từ đó có cách xử lý chiến lược hơn.

Ông Nguyễn Đức Kiên:


Chào bạn, việc tái cấu trúc lại nền kinh tế thì đúng là phải bắt đầu từ tái cấu trúc doanh nghiệp như bạn đã nêu. Chuyện điều chuyển vốn của Vinashin đứng về góc độ chủ sở hữu thì việc rút vốn đầu tư của tập đoàn này đầu tư vào Bảo Việt chuyển về cho Tổng công ty Quản lý và đầu tư vốn của Bộ Tài chính là việc làm bình thường của chủ sở hữu.

Sau khi rút vốn, Vinashin sẽ dồn lực vào công nghiệp đóng tàu và các ngành công nghiệp phụ trợ khác như nhiệm vụ ban đầu khi quyết định thành lập tập đoàn. Tái cấu trúc bao giờ cũng là xử lý các tồn tại của mô hình trước để xây dựng một mô hình mới tiên tiến hơn, phù hợp với thực tế của nền kinh tế.

Đây là một đặc thù của nền kinh tế thị trường. Còn chúng ta còn có định hướng xã hội chủ nghĩa nên chúng ta chuyển vốn để giữ chỗ làm việc cho hàng chục nghìn người lao động hiện đang làm việc ở Vinashin.

Vu Minh Hang - Nữ 40 tuổi - Kế toán:

Tôi đọc báo thấy có rất nhiều tin các ngân hàng tài trợ vốn hàng nghìn tỷ đồng, liên tục và thường xuyên, cho các tập đoàn kinh tế. Trong khi những doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi tìm vốn rất khó khăn. Tất nhiên là còn tùy thuộc vào uy tín, hiệu quả dự án..., nhưng có sự ưu ái rất rõ trong việc này. Xin các diễn giả cho biết quan điểm về sự ưu ái đó.

Ông Nguyễn Ngọc Sự:

Các ngân hàng thương mại thực chất cũng là các doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và họ cũng phải tính toán các phương án kinh doanh có lợi nhất và ít rủi ro nhất.

Đặc biệt họ lại kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, vì vậy khi cho vay họ phải lựa chọn các dự án khả thi và các khách hàng có uy tín, các tập đoàn kinh tế thường có thương hiệu uy tín cao, các dự án lớn và có hiệu quả, vì vậy đương nhiên các ngân hàng đương nhiên rất quan tâm. đến các dự án của tập đoàn.

Tôi cho rằng, đây cũng là việc bình thường trong kinh doanh, vì vậy các doanh nghiệp nhỏ muốn vay được tiền một cách dễ dàng thì họ cần phải nâng cao uy tín của mình đầu tư những dự án và sản phẩm có sức hấp dẫn trên thị trường.

Mặt khác, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ thì cũng phải có những quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp mình và các ngân hàng để đảm bảo hai bên cùng có lợi một cách chính đáng, tức là các doanh nghiệp phải sử dụng các dịch vụ như tiền gửi, bảo lãnh và các dịch vụ khác.

BVH - Nam 37 tuổi - Nhà đầu tư:

Tôi xin hỏi lãnh đạo Bảo Việt một câu thế này không biết có phù hợp với nội dung buổi giao lưu không: từ tổng công ty nhà nước, 40 năm hoạt động trong môi trường nhà nước, nay chuyển lên Tập đoàn, cổ phần hóa, vậy có sự thay đổi nào trong quan điểm của lãnh đạo Tập đoàn Bảo Việt giữa lợi ích của cán bộ nhân viên với lợi ích của các cổ đông bên ngoài? Nhân thể, xin cho biết định hướng kinh doanh và triển vọng của BVH trong năm 2010. Cảm ơn rất nhiều.

Ông Phạm Khắc Dũng:

Từ ngày 15/10/2007, Tập đoàn Bảo Việt hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Ngay sau khi đi vào hoạt động theo mô hình mới, Tập đoàn xác định đảm bảo quyền lợi và lợi ích của các cổ đông, cũng như không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên.

Định hướng phát triển của Bảo Việt trong giai đoạn 2010 – 2014 được xác định là: “Phát triển thành định chế tài chính – bảo hiểm hàng đầu Việt Nam, có tiềm lực tài chính vững mạnh, từng bước hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới dựa trên ba tru cột: dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng và đầu tư.”

Nguyễn Thúy Hoa - Nữ 36 tuổi:

Xin chào lãnh đạo Petro Vietnam, hiện nay trên thị trường niêm yết các cổ phiếu thuộc họ PV có giá trị vốn hóa tương đối lớn có giá giao dịch rất thấp so vối giá IPO. Vậy ông có thể cho biết tình trạng này có phản ánh tương ứng với chất lượng quản lý và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thuộc Petro Vietnam?

Ông Nguyễn Ngọc Sự:

Cổ phiếu các doanh nghiệp Petro Vietnam được IPO vào thời điểm rất thuận lợi, do đó thường có giá IPO cao hơn mệnh giá bình thường. Điều này do ảnh hưởng của yếu tố tâm lý nhà đầu tư và thị trường, hiện nay có một số cổ phiếu đang giao dịch với giá thấp hơn giá IPO, điều này không đồng nghĩa với sự hoạt động kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp thuộc Petro Vietnam.

Theo tổng kết của chúng tôi, năm 2009, hầu hết các doanh nghiệp dầu khí hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh thu và lợi nhuận, có những doanh nghiệp chia cổ tức rất cao, tới 30-40%. Việc giá thấp hơn giá IPO hoàn toàn do biến động của thị trường, khi IPO thì VN-Index đang ở mức 1.100-1.200 điểm và đến nay xấp xỉ 600 điểm, do vậy giá cổ phiếu xuống do thị trường là phản ánh đúng quy luật của thị trường chứng khoán.

Nguyễn Hoàng Thu Uyên - Nữ 36 tuổi - Kiểm toán:

Những năm gần đây, một phong trào nở rộ là rất rất nhiều công ty bé tẹo, hoặc có tiếng một chút đều rất tự tin đưa hai chữ "tập đoàn" vào tên gọi. Theo các diễn giả, như thế có lạm phát không? Nên hiểu thế nào và cần như thế nào để phù hợp với tên gọi đó?

Ông Nguyễn Đức Kiên:

Chào bạn, phát hiện của bạn rất hay. Nó chỉ rõ đặc tính sính thương hiệu của một số người đang làm quản trị doanh nghiệp. Họ quan niệm tập đoàn là mô hình phát triển cuối cùng của mô hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nên gọi tập đoàn "oai" hơn là công ty. Họ quên mất một điều chất lượng sản phẩm và thị phần mới là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành tên gọi tập đoàn.

Không phải cứ chuyển tên gọi thành tập đoàn là doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp tự động tăng lên, nên bạn cứ yên tâm những người như bạn sẽ không bao giờ bị nhầm. Hy vọng rằng trong các buổi "trà đạo" bạn cũng chia sẻ những hiểu biết của mình cho đồng nghiệp, bạn bè. Như vậy, các doanh nghiệp kia sẽ lại phải xin chuyển về tên ban đầu.

Nguyễn Thành Trung - Nam 39 tuổi - Viên chức:

Có nhiều mô hình tập đoàn kinh tế, theo thuật ngữ tiếng Anh, một số tập đoàn sử dụng từ "Group" một số khác thì sử dụng từ "Holding". Vậy sự khác nhau như thế nào về mô hình tập đoàn kinh tế khi có sự phân biệt giữa hai từ này?

Ông Phạm Tuấn Anh:

Tập đoàn kinh tế là một nhóm các công ty có quy mô lớn, liên kết dưới hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp có gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác; trong đó có một công ty – gọi là công ty mẹ nắm giữ toàn bộ hoặc một phần vốn của các công ty khác hoặc chi phối các công ty khác về thương hiệu, thị trường, công nghệ, nghiên cứu, đào tạo,…theo thỏa thuận liên kết.

Từ “Group” chỉ tổ hợp các doanh nghiệp, còn từ "Holding" chỉ công ty mẹ trong tập đoàn, là công ty nắm giữ toàn bộ hoặc một phần vốn ở các công ty thành viên khác.

Đỗ Văn Định - Nam 33 tuổi - Công chức:

Tôi rất quan tâm đến hoạt động của các tập đoàn nhà nước, nhưng thực sự chúng ta vẫn còn tồn tại 2 luồng suy nghĩ khác nhau: - Tập đoàn có nên đa ngành nghề, đa lĩnh vực không? và không nên kinh doanh sang các lĩnh vực không phải là thế mạnh của mình. Tôi ủng hộ luồng ý kiến cho rằng tập đoàn kinh tế phải kinh doanh đa ngành. Chúng ta không có nên có khái niệm rõ ràng về "thế mạnh" hay "tay trái" vì chúng ta là nước có nền kinh tế đang chuyển đổi, đang hội nhập. Chúng ta phải hình thành các tập đoàn đa ngành, có đủ sức cạnh tranh. Không nên suy nghi mãi mãi tập đoàn chỉ kinh doanh "một mặt hàng đặc trưng".

Ông Nguyễn Đức Kiên:

Chào bạn, tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của bạn. Xin phép được dùng quan điểm của bạn để trả lời cho các độc giả khác có cùng quan tâm.

Cảm ơn bạn.

Trung Tuấn - Nam 51 tuổi - Nhà đầu tư:

Tôi là độc giả thường xuyên của VnEconomy. Chiều nay tôi vừa đọc bài "Gần 50% tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có hiệu quả kinh doanh thấp". Vậy xin hỏi Tập đoàn của các diễn giả có nằm trong trường hợp trên không? Trân trọng.

Ông Vũ Đức Giang:

Tôi xin khẳng định Tập đoàn Dệt may năm 2006, 2007, 2008 đều kinh doanh hiệu quả.

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của Tập đoàn năm 2006 đạt 7%, năm 2007 đạt 11,42% và năm 2008 đạt 13,5% và dự kiến con số này năm 2009 ước đạt khoảng 13%.

Ông Phạm Khắc Dũng:

Chào bạn, Tập đoàn Bảo Việt đã thực hiện tốt các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh do Đại hội đồng cổ đông giao năm 2009.

Bảo Anh - Nữ 31 tuổi - Kế toán:

Quý vị nhìn nhận thế nào về vai trò của tập đoàn kinh tế. Có thực sự là những “anh cả” trong phát triển kinh tế của đất nước và họ đã đảm bảo được vai trò "anh cả" trong sản xuất kinh doanh, hỗ trợ nền kinh tế phát triển chưa?

Ông Phạm Khắc Dũng:


Theo tôi, hiện nay các tập đoàn kinh tế mặc dù mới được thành lập và đi vào hoạt động với thời gian chưa lâu, nhưng đã dần dần khẳng định được vai trò của mình trong các lĩnh vực liên quan của nền kinh tế.

Các tập đoàn đặc biệt chú trọng việc đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp, tăng cường tính chuyên nghiệp trong các hoạt động kinh doanh nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.

Văn Thiếu Sơn - Nữ 40 tuổi - Kỹ sư:

Các ông suy nghĩ như thế nào trước thông tin Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) có đến 157 doanh nghiệp thành viên, trong khi phần lớn hoạt động bằng vốn đi vay?

Ông Nguyễn Đức Kiên:

Chào bạn, theo tôi thì đây là một khuyết điểm trong mô hình tổ chức của Vinashin.

Tại báo cáo giám sát của Quốc hội sẽ được thảo luận tại hội trường vào ngày 9/11 tới đây cũng là một khuyết điểm. Khuyến điểm này là do đội ngũ làm quản trị doanh  nghiệp và bộ máy giúp việc đã không thể đủ kinh nghiệm và năng lực để kiểm soát và lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng cho doanh nghiệp thành viên nên nhiều doanh nghiệp thành viên khi kinh tế có biến động đã không kịp xử lý, làm cho các khó khăn ngày càng trầm trọng hơn, dẫn tới doanh nghiệp mất vốn, đời sống người lao động gặp khó khăn...

Các chỉ đạo của Chính phủ đối với tập đoàn này trong thời gian vừa qua cũng là từng bước giúp tập đoàn vượt qua những hạn chế đó.

Hoang Ha - Nam 55 tuổi - Nhà báo:

Làm tổng giám đốc tập đoàn có "khó" hơn làm tổng giám đốc một công ty không? Sự khác biệt lớn nhất trong điều hành tập đoàn so với công ty là gì, thưa hai tổng giám đốc?

Ông Nguyễn Ngọc Sự:

Phải phân biệt rõ những doanh  nghiệp nào xứng đáng là tập đoàn và những doanh nghiệp nào có tên là tập đoàn nhưng chưa đủ tầm cỡ tập đoàn.

Đã là tổng giám đốc tập đoàn thì quy mô phạm vi quản lý điều hành lớn hơn nhiều so với một đơn vị. Bản thân tập đoàn là một sự liên kết giữa các công ty lại với nhau và được điều hành thông qua các quan hệ tài chính. Công ty mẹ quản lý điều hành và chi phối thông qua vốn, thương hiệu, chiến lược phát triển, thị trường.

Vì vậy làm tổng giám đốc tập đoàn khó khăn hơn rất nhiều so với giám đốc một doanh nghiệp.

Thúy Liên - Nữ 26 tuổi - Nhân viên văn phòng:

Mong ông, bà cho biết tính ưu việt của tập đoàn so với tổng công ty trước đây, và sự ưu việt đó được biểu hiện như thế nào qua kết quả kinh doanh của mình thời gian qua?

Ông Phạm Khắc Dũng:

Tính ưu việt của tập đoàn được thể hiện trên một số khía cạnh như sau; quản trị doanh nghiệp được củng cố theo hướng tập trung, có chiến lược kinh doanh ngắn hạn, dài hạn một cách cụ thể, tổng hòa được sức mạnh của các công ty thành viên, nâng cao năng lực cạnh tranh và đặc biệt là việc tận dụng được sức mạnh của thương hiệu trong hoạt động kinh doanh của mình.

Đối với Tập đoàn Bảo Việt, ưu việt này được thể hiện: các công ty con của Tập đoàn Bảo Việt kinh doanh trong các lĩnh vực nòng cốt bao gồm dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, quản lý quỹ, chứng khoán đều là các công ty hàng đầu trên thị trường về năng lực cạnh tranh và chất lượng dịch vụ khách hàng.

Tập đoàn Bảo Việt sở hữu Bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Việt Nhân thọ là hai công ty bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ hàng đầu, chiếm 32% thị phần bảo hiểm tại Việt Nam. Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt là công ty chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam.

Năm 2008, Tập đoàn Bảo Việt đã thành lập Ngân hàng Bảo Việt nhằm mở rộng khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính kết hợp ngân hàng - bảo hiểm và đầu tư tài chính cho khách hàng, thực hiện mục tiêu trở thành một tập đoàn dịch vụ tài chính - bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam.

Nguyen Hong Nhung - Nữ 32 tuổi - Nhân viên văn phòng:

Tôi xin hỏi ông Kiên thế này. Tại sao khi các tập đoàn, tổng công ty mở rộng rất nhanh, nhiều vấn đề nảy sinh trong quản lý, hiệu quả, định hướng… thì mới tập trung vấn đề giám sát. Tại sao không giám sát chặt ngay từ đầu, lường trước các nảy sinh, hay tại năng lực của các cơ quan quản lý, giám sát còn hạn chế? Trân trọng cảm ơn.

Ông Nguyễn Đức Kiên:

Chào bạn, tập đoàn đầu tiên được thành lập là năm 2005. Bắt đầu từ 2007 mới có các đầu tư vào thị trường chứng khoán, nếu không có khủng hoảng kinh tế năm 2008 thì các vấn đề hiệu quả đầu tư ngoài ngành sẽ không được đặt ra.Vì hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ bao giờ cũng cao hơn lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là cơ khí và xây dựng.

Trong năm 2009 không có hoạt động đầu tư nào phát sinh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Tôi cũng xin chia sẻ với bạn là năng lực của đội ngũ cán bộ chúng tôi được đào tạo trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nên khi nghiên cứu ban hành chính sách để quản lý điều tiết các tập đoàn cũng còn nhiều bỡ ngỡ.

Nhất là chúng ta lại đi sau so với các nước công nghiệp phát triển, bị sức ép rất nhiều trong việc chiếm lĩnh thị trường cũng như luôn luôn bị các rình rập pháp lý của các nước đối tác đối với hàng Việt Nam (như cá tra, cá basa ở Mỹ, giày dép ở châu Âu, gạo ở Nhật Bản...).

Tôi hy vọng rằng ngày càng có nhiều người có trình độ năng lực như bạn tham gia vào các bộ máy hoạch định chính sách để giúp cho việc vận hành bộ máy ngày càng tiến bộ, tránh được những rủi ro không cần thiết cho doanh nghiệp. Trân trọng.

 

(Theo Vneconomy)

  • Gian nan chuyển đổi nền kinh tế từ quản lý tập trung sang thị trường
  • 10 công trình nghiên cứu kinh tế có sức ảnh hưởng mạnh nhất 100 năm qua
  • Giao thông phản ánh tình hình kinh tế?
  • TS. Alan Phan: Cách đánh giá một nền kinh tế
  • Việt Nam: Bẫy thu nhập trung bình có thể xuất hiện sớm?
  • Tập đoàn và con đường phía trước (1)
  • TS.Phan Minh Ngọc: Bàn về khủng hoảng và thất nghiệp
  • Những vấn đề đặt ra từ các doanh nghiệp cổ phần (3): Điều chỉnh chính sách
  • Phân định kẻ thắng người thua
  • Những vấn đề đặt ra từ các doanh nghiệp cổ phần (3): Điều chỉnh chính sách
  • Những vấn đề đặt ra từ các doanh nghiệp cổ phần hóa(2): Thiệt vì những kẽ hở
  • Những vấn đề đặt ra từ các doanh nghiệp cổ phần hóa (1)
  • Quản trị doanh nghiệp trong thời khủng hoảng kinh tế
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com